TL: Chữ “cult” hiện rất phổ thông ở Hoa Kỳ, theo tự điển của Cha Ngô Minh và Nguyễn Thế Minh, nó có nghĩa: phụng thờ, sùng bái, hay hình thức đam mê quái dị. Nếu dùng một cách xác thực, nó chỉ về một nhóm người có mục đích tôn giáo nào đó; nó cũng có thể chỉ về một vài nghi lễ, nghi thức, và sinh hoạt cầu nguyện đặc biệt được thi hành trong một nhóm đặc biệt. Thí dụ, Công Ðồng Vatican II được đề cập đến như “sự sùng bái các thánh”, nó có nghĩa người Kitô vinh dự và sùng kính các Kitô Hữu đang ngự trên trời với Ðức Kitô. Dùng theo phương cách này, “cult” không có ý nghĩa xấu.
Trong một vài thập niên vừa qua, một hiện tượng đáng tiếc đã phát sinh, chính yếu từ các giáo phái Tin Mừng (Evangelical Protestants) là những người đã dùng chữ này để gán cho các tổ chức tôn giáo mà họ bất đồng ý. Những người theo Mormons và Jehovah’s Witnessess trở thành “người tà giáo”. Trong một ý nghĩa phổ thông hơn, chữ “cult” không chỉ nói đến một giáo phái có nhiều giáo lý kỳ quặc, nó còn ám chỉ đến một tổ chức có hoạt động bí mật, dùng sự lừa gạt và nhồi sọ để giữ tín đồ, và đôi khi những tổ chức này xuất phát từ việc thờ Satan (tà giáo). Việc gọi ai đó là “người tà giáo” trở nên một vũ khí tiện lợi để tấn công các tôn giáo thiểu số. Một số người Fundamentalist gọi Giáo Hội Công Giáo là tà giáo.
Dĩ nhiên, có một số giáo phái thực sự là tà giáo, nhưng bạn phải thận trọng khi đề cập đến sự kiện đó. Nếu bạn muốn giảng đạo cho những người có liên hệ với các giáo phái ấy, bạn phải tránh những phương cách làm họ xa lánh bạn. Kiên quyết nhưng khoan dung. Ðừng dùng chữ “tà giáo”. Tự kềm hãm một chút mà bạn sẽ thành công hơn.
Giáo Phái Christadelphians
1. Tôi vừa gặp phái Christadelphians. Xuất xứ họ ra sao và họ tin những gì?
Giáo phái Christadelphians (“anh em Ðức Kitô”) được thành lập năm 1848 bởi John Thomas, là một y sĩ và con của một mục sư phái Congregationalist. Vào lúc đó, ông tự nhận là một thành viên của phái Campbellites (phong trào “Giáo Hội Ðức Kitô”). Năm 1848 ông viết cuốn “Elpis Israel-An Exposition of the Kingdom of God”, nói lên những quan niệm tôn giáo của ông.
Giáo phái này thu hút nhiều người ở Hoa Kỳ, Gia Nã Ðại, và Anh Quốc và dần dần được biết đến dưới cái tên Christadelphians trong thời Nội Chiến Hoa Kỳ, khi các hội viên hiếu hòa của họ buộc phải chọn một danh xưng. Vào thời đó, họ chưa phát triển mạnh, và ngày nay, có khoảng 20,000 thành viên ở Anh Quốc và 16,000 ở Hoa Kỳ. Các tín đồ của họ cũng được nhận thy ở Gia N Ðại, Úc, Ðức, và Tân Tây Lan.
Phái Christadelphians chủ trương độc vị (unitarianism), chỉ tin có một ngôi vị nơi Thiên Chúa Cha. Họ coi Chúa Giêsu như một trong nhiều “Elohim” hay “chư thần được dựng nên” mà đã có lần làm người; về phương diện này, phái Christadelphians giống như phái Mormons. Họ không coi Chúa Thánh Thần là một thần khí nhưng là một sức lực.
Người Christadelphians tin rằng linh hồn “ngủ” giữa sự chết và sự sống lại, và do đó không có hình phạt đời đời; về phương diện này, họ giống phái Jehovah’s Witnesses. Họ cho rằng người độc ác sẽ không được sống lại vào ngày sau hết.
Phái Christadelphians từ chối sự hiện diện của ma quỷ và cho rằng, vào một ngày rất gần Ðức Kitô sẽ trở lại thống trị Giêrusalem trong vòng một ngàn năm.
Phái Christadelphians không tập trung thẩm quyền. Mỗi một giáo hội địa phương hay “ecclesia”–như họ thường gọi, hành xử cách độc lập và thường tụ họp ở nhà hay các cơ sở được thuê mướn. Họ không dùng đến hàng giáo sĩ được trả lương, nhưng tuyển chọn “serving brethren” (anh em phục vụ) trong một nhiệm kỳ ba năm. Họ không có sứ mệnh và chống đối việc phục vụ trong quân đội, nghiệp đoàn, nắm giữ chức vụ công cộng, và đi bầu; một lần nữa, về phương diện này, họ giống phái Jehovah’s Witnesses.
2.Người Christadelphians cho rằng
Trưng ra đoạn phúc âm đó không có nghĩa là họ đúng, nhưng thực ra nó được giải thích theo cách khác. Sách Tiên Tri Isaiah 26,14 đề cập đến sự thất bại của kẻ xâm lăng Israel như “cái bóng không thể vươn lên.” Ðiều này có nghĩa họ không thể tự sống lại từ cõi chết. Sách Tiên Tri Isaiah 43,17 và Giêrêmia 51,57 nói đến sự bất lực của người chết không thể chỗi dậy khi vấp ngã, và trong trường hợp của Tiên Tri Giêrêmia câu 51 đoạn 57, đó là sự bất lực không thể thức giấc. Tất cả ba đoạn này có giá trị trong khung cảnh thời gian đó, với thời đại chúng ta thì những đoạn ấy bị giới hạn và không dính líu gì đến ngày tận thế. Tận thế là vấn đề khác.
Khi giở sang các đoạn đề cập đến ngày tận thế, chúng ta thấy người độc ác sẽ được sống lại vào ngày sau hết. Trong Phúc Âm Thánh Gioan 5,28-29, Chúa Giêsu nói với chúng ta, “Ðừng ngạc nhiên về điều này, khi đã đến giờ thì mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng Người và sẽ ra khỏi đó, những ai làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống, những ai làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án.” Chúng ta thấy mọi kẻ chết sẽ nghe tiếng Người và sẽ sống lại và người độc ác sẽ “sống lại để bị kết án.”
Trong Khải Huyền 20,12-15, chúng ta thấy, “Và tôi thấy những người chết, lớn cũng như nhỏ, đứng trước ngai, và quyển sách mở sẵn. Một cuốn khác cũng mở ra: đó là sách trường sinh. Các người chết được xét xử tuỳ theo việc họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách. Và biển trả lại những người chết nó đang giữ; tử thần và âm phủ trả lại những người chết chúng đang giữ, và mỗi người chịu xét xử tuỳ theo các việc đã làm… Ai không có tên ghi trong Sổ trường sinh thì bị quăng vào hồ lửa.”
Qua đoạn văn này, chúng ta được biết tất cả mọi người chết, lớn cũng như nhỏ, được xét xử theo những gì họ đã làm. Biển, tử thần, và âm phủ cũng sẽ trả lại các người chết trong đó, điều này có nghĩa không một người chết nào mà không được sống lại. Trong những người được sống lại sẽ có người độc ác, họ sẽ bị luận phạt.
Lý luận của phái Christadelphians về câu 18 đoạn 15 trong thư I gửi giáo đoàn Côrintô là sai lầm. Thánh Phaolô quả quyết rằng nếu Ðức Kitô không được sống lại, thì những người đã chết trong Ðức Kitô sẽ bị tiêu vong. Cách hay nhất để bác bẻ là quay về Ðức Kitô. Ngài đã sống lại, bởi thế những người còn đang ngủ trong Ngài sẽ không bị diệt vong — họ đang tỉnh thức với Ngài trên thiên đàng.
Vài điểm cần biết thêm:
Thứ nhất, người Do Thái có hai quan điểm về đời sau, một là hoàn toàn hủy diệt (theo người Sa-đu-xê) và hai là sự sống lại (theo người Pharisêu). Khi Thánh Phaolô nói, “Nếu không có sự sống lại thì những kẻ chết trong Ðức Kitô sẽ tiêu vong,” có lẽ ngài muốn ám chỉ đến quan điểm của người Sa-đu-xê là không có sự sống sau khi chết. Ngài không nghĩ đến một sự hiện hữu ngoài thân xác (linh hồn), vì trong tư tưởng của người Do Thái, sự hiện hữu ngoài thân xác chỉ là tình trạng tạm thời trước khi sống lại. Nếu không có sự sống lại, thì cũng không có tình trạng ngoài thân xác. (Sự thật thì có linh hồn, xem Luca 16,19-31 và Khải Huyền 6,9).
Thứ hai, người phái Christadelphians có lẽ cho rằng trong thư I Côrintô 15,18, “tiêu vong” có nghĩa “bị tiêu hủy” hay “không còn hiện hữu.” Không nhất thiết phải hiểu như thế. Thí dụ, trong Êphêsô 2,1, Thánh Phaolô đề cập đến cái chết về tinh thần (“chết đi tội lỗi của một người”), điều đó có thể xảy ra khi người ấy còn sống. Ðiểm của ngài trong thư I Côrintô 15,18 có thể là những Kitô Hữu không chỉ chết về thể xác mà còn chết về đàng tinh thần nếu không hy vọng vào sự sống lại; họ đặt hy vọng vào Ðức Kitô một cách vô hiệu. Ðây là ý tưởng của câu trước đó: “Nếu Ðức Kitô không sống lại, đức tin của anh chị em sẽ vô ích và anh chị em vẫn ở trong tội” (1 Cr 15,17).
(nguoitinhuu)