CUỘC LỮ HÀNH ÐỨC TIN
LỊCH SỬ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Chương 6: SÁU THẾ KỶ ÂU CHÂU KI-TÔ HÓA
(Thế kỷ VI – XI)
* Giáo hội thời Sứ Đồ * Giáo hội thời tử đạo * Đế quốc Roma tòng giáo * Việc hình thành kinh Tin Kính * Truyền thống : Các Giáo Phụ * Âu Châu ki-tô hóa (tk 6-11) * Bối cảnh phát sinh Chính Thống Giáo * Những nền tảng Nước Kitô (tk 11-13) * Ảo vọng quyền lực * Hoa trái của lòng tin * Nước Kitô thời khủng hoảng Phần III : GIÁO HỘI THỜI PHỤC HƯNG * Phục hưng và cải cách * Cuộc canh tân Gíao hội (c.đồng Trentô) * GH và cuộc khủng hoảng lương tâm Tk.18 * Phúc Âm hóa toàn thế giới (Tkỷ 15-18) Phần IV : GIÁO HỘI THỜI HIỆN ĐẠI * Từ Cách Mạng 1789 đến Vatican I * GH giữa thế giới Tân Tiến (1870-1939) * Sự trưởng thành các xứ truyền giáo Tk. 19 * Giáo Hội thời Vatican II (1939-1985) Phần V : GIÁO HỘI VIỆT NAM * GHVN thời sơ khai (tk 16-17) * GHVN xây dựng và phát triển * GHVN thời cận đại (1802-1933) * Chân dung các thánh tử đạo Việt Nam * Giáo hội Việt Nam hiện nay * Lược sử Giáo hội Việt Nam |
I. GIÁO HỘI THỜI ROMA BỊ XÂM CHIẾM
1.1 Những ông chủ mới của đế quốc
Đầu thế kỷ V, nhiều nhóm dân German vượt sông Danube và Rhin tiến vào đế quốc. Năm 410, Alaric (Visigoth) chiếm được thủ đô Roma, rồi đưa dân đến định cư ở miền nam nước Pháp và Tây Ban Nha. Nhóm Vandale thì chiếm Bắc Phi. Năm 430, thánh Augustino qua đời tại Hippone đã bị chiếm đóng.
Carthago thất thủ năm 439. Sau đó, đến lượt đạo quân Hung nô của Attila viễn chinh sang Tây phương. Năm 452 Roma thoát được tai nạn Hung nô nhờ tài ngoại giao của Đức Leo Cả, nhưng chỉ ba năm sau thì bị người Vandale của Generic từ Bắc Phi lên tàn phá.
Cuối cùng, năm 476, một thủ lãnh Man Dân là Odoacre truất phế hoàng đế Romulus Augustus. Thế giới Roma Kitô giáo chấm dứt. Đế quốc phần Đông phương vẫn tồn tại, trong khi Tây phương bị chia năm xẻ bảy thành những vương quốc Man Dân.
1,2. Thực chất việc xâm lăng
Thực ra các nhóm Man Dân không có những đội quân tinh nhuệ. Trong nhiều thế kỷ trước họ đã tạm chiếm một số khu vực vùng biên giới để ồn định đời sống cho gia đình. Họ tiến công vì thú mạo hiểm, vì tham lam sự giàu có của đế quốc, vì ước mơ nếp sống văn minh, cộng với lợi thế thực tế, trước đây họ đã hiện diện đông đảo trong quân đội Roma, đã từng được chính các hoàng đế sử dụng để lật đồ lẫn nhau.
Thế nhưng sâu xa hơn, họ chiến thắng vì sự suy yếu của Roma. Giám mục Eucher thành Lyon nói về Roma “ôn dịch, đói kém, hoang tàn và sợ hãi”. Thời Roma hùng mạnh với những pháo đài kiên cố, binh sĩ kỷ luật và tài ngoại giao khéo léo đã qua rồi. Năm 395, hoàng đế Théodose chia đôi đế quốc cho hai con trai là Honorio 11 tuồi phía Tây, và Arcadius 18 tuồi phía Đông. Nội các của hai tiểu vương chia rẽ ghen ghét lẫn nhau. Các viên chức thì thiếu khả năng lại tham nhũng. Người thu thuế đông hơn người nộp thuế.
Sử gia Orosius viết : “Dân Roma nhiều người thà sống với dân Man di hơn là chịu sưu cao thuế nặng”. Salvianus viết mạnh hơn : “Dân nghèo đầy thất vọng, họ mong chờ kẻ thù đến họ xin Thiên Chúa sai Man Dân đến với họ”.
1,3. Tìm một định hướng lịch sử
Trước biến cố Roma sụp đồ, các giám mục có những phản ứng khác nhau. Mới đầu nhiều vị như thánh Giêronimo than tiếc, trách móc trước cái chết của Kinh Thành muôn thuở. Dần dần các vị củng cố lại niềm tin cho các tín hữu.
Có vị giải thích biến cố như hình phạt của Chúa : “Tội và nết xấu của chúng ta là sức mạnh của Man Dân”. Giám mục Orens nói : “Kể lể làm chi đám ma của một thế giới đã sụp đồ theo định luật bình thường của những gì phải chết”. Có vị lạc quan hơn như tác giả cuốn “Lời kêu gọi muôn dân”, khi nhận định : “loạn ly làm gia tăng người xin rửa tội, làm tín hữu nguội lạnh thành sốt sắng. Các tù nhân Kitô hữu đã thuyết phục kẻ chiến thắng theo Phúc âm, cho man dân hưởng nền Giáo dục Kitô. Bởi vì không có gì ngăn cản được hiệu quả của ân sủng”.
Các nhà thần học thì khẳng định lịch sử luôn thuộc quyền của Thiên Chúa, Thánh Augustino qua cuốn “Thành đô Thiên Chúa” mở ra cho mọi người một viễn tượng mới về Nước Thiên Chúa gồm những người đã tái sinh trong Đức Kitô. Nước đó vượt qua ranh giới của đế quốc và dành cho mọi sắc dân. Đức Kitô muốn xã hội mới được tổ chức hoàn toàn dựa vào Tin Mừng. Các vua phải phục vụ công ích và công lý, phải tạo điều kiện cho nhân dân sống theo mục đích siêu nhiên của ơn cứu độ. Thành đô Thiên Chúa sẽ thay thế Đế quốc.
Khi Man Dân xâm chiếm, các giám mục được mệnh danh là những nhà bảo vệ đô thị. Thánh Germano cản Alano không phá hoại mạn Tây Gallia. Thánh Leo bảo vệ Roma khỏi nạn Attila; các giám mục Exuper, Lupo, Aignan tổ chức phòng thủ cho Toulouse, Troyes và Orléans. Nhưng khi Man Dân đã đến, các ngài bênh vực quyền lợi người dân, giúp hồi hương và chuộc lại các tù binh. Thánh Augustino khuyên các giáo sĩ ở lại với tín hữu. Các giám mục Phi-châu sẵn sàng đàm phán với các lãnh tụ Vandale. Đức Gregorio nối kết tình hữu nghị với dân Lombard. Tại Gallia, dân Roma và Bourgonde sống thông cảm thành thực là nhờ giám mục Avis ; tại Ý sự hòa hợp giữa dân và nhóm Goth cũng nhờ công của thánh Epiphan.
II. TỪNG KHỐI DÂN ĐÓN NHẬN TIN MỪNG
“Như ong làm tổ thế nào, các giám mục đã làm nên những quốc gia Âu Châu như vậy”. Đó là cách mục sư Luther diễn tả đặc tính của sáu thế kỷ Âu Châu Kitô hóa, Giáo hội đã chinh phục từng miền, từng khu vực.
Giai đoạn đầu : Thường nhờ uy tín các giám mục, nhờ trung gian các nữ hoàng, đôi khi nhờ phép lạ khiến một vị vua đón nhận Tin Mừng, kéo theo cả khối dân xin rửa tội.
Giai đoạn sau : nhờ các đan sĩ truyền giáo hăng say, kiên nhẫn cảm hóa nhân tâm bằng tài thuyết phục, bằng mẫu gương đời sống thánh thiện, bằng tài tổ chức và nhất là qua sinh hoạt đan viện nâng cao đời sống vật chất cũng như văn hóa quần chúng. Dần dần hầu hết các chủng tộc Âu-Châu đón nhận Giáo lý Phúc Âm.
2,1. Khối German theo đạo
Dân Gallia : Vua Clovis, nhờ cầu nguyện với Chúa của nữ hoàng Clotilda, đã thắng quân Alaman, nên Vua quyết định theo đạo. Noel 498, Vua và 3.000 tùy tòng xin rửa tội khai mở một thời kỳ mới trong lịch sử. Hoàng đế, được coi như Constantin thứ hai, đã hỗ trợ Giáo hội Pháp phát triển nhanh chóng. Các cơ sở, thánh đường, trường học, bệnh viện mọc lên khắp nơi. Luân lý Kitô giáo do các Hội nghị Giám mục miền phổ biến, được Đức Vua phê chuẩn, có hiệu lực như đạo luật quốc gia.
Thế kỷ sau, các nhóm Ario Visigoth : dân Bourgond (500), Suève (579) lần lượt gia nhập Giáo hội. Dưới sự hướng dẫn của thánh Leandro, các Bộ Luật Tây Ban Nha ở Toledo dựa theo các qui luật của Phúc Âm. Giáo hội Tây Ban Nha nhờ đó phát triển vững chắc, đủ sức đương đầu với các thế lực Hồi Giáo sau này (711-1492).
Tại Ý, dân Lombard chiếm Roma năm 568 và xin theo đạo đầu thế kỷ sau. Nhưng vì những bất đồng về chính trị, họ xâm chiếm lãnh địa của giáo hoàng. Vua Pháp Pépin đem quân giải cứu, sau đó tặng Giáo hoàng lãnh địa Pherô, Ravenna và năm tỉnh khác. Đó là nguồn gốc Nước Tòa Thánh (756-1870), một thế lực và cũng là nỗi khổ lâu dài của Giáo hội.
Với nước Anh, Đức Grêgorio đã đào tạo một số nô lệ Anglo để phái về quê giảng đạo, nhưng thất bại. Sau ngài cử thánh Augustino viện phụ (+605) cùng 40 đan sĩ đi truyền giáo. Ngài đưa ra các chỉ thị khôn ngoan về thích nghi : “Đừng phá các chùa chiền, chỉ cần dời những tượng thần, rảy nước thánh hóa, xây bàn thờ và đặt xương thánh lên trên. Với các đền thờ kiên cố, chỉ cần chuyển việc thờ thần qua việc phụng tự Thiên Chúa… Người dân sẽ dễ dàng tụ tập tại những nơi cha ông họ thường lui tới”. Chỉ trong vài chục năm (597-680) bảy nước thuộc Anh đã tòng giáo.
Ái Nhĩ Lan, đảo các thánh, ghi đậm dấu chân thánh Patricio (+461) kiên nhẫn thuyết phục các tù trưởng, thày pháp và các thi sĩ. Thánh Columban (+615) hoàn tất việc truyền giáo tại đây, lập nhiều đan viện, cung cấp nhiều vị thừa sai cho Châu Âu lục địa, để cùng với các đan sĩ Anglo hoạt động tại Ý, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy…
Riêng Đức quốc, luôn ghi nhớ công ơn thánh Bonifacio (+755). Nhờ tài tổ chức thánh nhân đã biến những đồng lầy thành làng mạc trù phú, chọn vị trí đặt Tòa giám mục và Đan viện. Chẳng bao lâu các vùng đó trở thành những đô thị lớn và quan trọng.
Dần dần ở Tây Âu, văn hóa Kitô giáo ngoài yếu tố Hy La, thu nhận thêm các đặc tính German. Số giáo xứ miền quê gia tăng nhanh chóng ảnh hưởng đến niềm tin “bình dân” của tín hữu : các lễ cầu mùa, khẩn cầu phép lạ, thờ kính các thánh…
2,2. Khối Slaves theo đạo
Ngay khi khối Slaves vừa định cư ở Đông Âu (T.kỷ VIII) cả hai phía Hy lạp – La tinh đều chung sức đem Tin Mừng đến cho các dân tộc này. Các thừa sai Đức từ Bavière đến truyền giáo ở Bohême và Moravie. Trong khi đó, giáo chủ Constantinopole, theo yêu cầu của một ông hoàng xứ Moravie, đã gửi đi hai anh em quê thành Thessalonica biết rành tiếng Slaves là Mêthodo và Cyrillo (863).
Đến nơi hai vị này sáng lập mẫu tự Slave theo Hy ngữ, dịch Kinh Thánh và Phụng vụ ra ngôn ngữ địa phương. Các giám mục Bavière phản đối vì cho rằng phụng vụ chỉ được phép cử hành bằng ba ngôn ngữ ghi trên đầu Thánh Giá là Do thái, Hi lạp và La tinh (Ga 19,20). Hai anh em liền về Roma và được đức Gioan VIII cho phép. Theo ngài thì “chớ gì Lời Kinh Thánh được hoàn tất, chớ gì mọi ngôn ngữ đều chúc tụng Thiên Chúa”. Thánh Cyrillo qua đời tại Roma. Thánh Methodo được đặt làm tổng giám mục Moravie. Sau khi ngài qua đời, các giám mục German xúi giục đức Stephano V kết án phụng vụ Slave (năm 885).
Tại Bungari, vua Boris theo đạo năm 864, nhưng có khuynh hướng Giáo hội độc lập. Năm 866 đức Nicolas I cử hai giám mục Formosus và Paulus, đặt tòa ở Bungari. Năm 870, Vua lại xin Byzantin đặt nhiều giám mục Hy Lạp. Sau 885, Vua tiếp nhận các môn đệ thánh Methodo tị nạn và phổ biến phụng vụ tiếng Slave. Thái tử Vladimir dự định đưa dân trở lại thần giáo, vua liền truất quyền và truyền ngôi cho con thứ. Sau cùng vua Simeon hoàn tất việc lập tòa giáo chủ tại Achrida năm 918.
Tại Ba Lan, khi tướng Miezko (960-992) xin rửa tội theo vợ là Dombrowska năm 966, cả nước cùng theo đạo. Kế vị ông, Boleslas I đã xin lập tòa giám mục năm 1000. Nhưng sau đó, ở BaLan có phong trào trở lại thần giáo cho đến khi Vua Casimir I tổ chức Giáo hội ồn định năm 1040.
Hungari theo đạo muộn hơn (năm 1001), nhưng phát triển nhanh và vững chắc nhờ vua thánh Stêphano. Nhà vua và con trai Emeric, sau được đức Gregorio VII suy tôn hiển thánh.
Riêng tại nước Nga Kiev, nữ Công Tước Helena Olga đã được rửa tội tại Constantinople năm 957. Bà không ngừng cầu xin cho dân Nga được ân thánh cảm hóa. Năm 988, cháu nội của bà là Wladimir đã hô hào toàn dân xuống sông Dniepr để tiếp nhận lễ rửa tội. Vua Wladimir tự chọn theo giáo chủ Byzantin vì ưa thích phụng vụ Constantinople hơn, và vì muốn học theo văn minh của khu vực này, đang khi tình hình chung của Tây Âu bị xuống dốc.
III. GIÁO HỘI THỜI CAROLO
3,1. Hoàng đế Charlemagne
Sau khi Charles Martel đẩy lùi quân Ả-Rập ở Poitiers năm 732 và Avignon năm 737, ông bắt đầu triều đại Carolingien (751-987) thay thế triều đại Mérovingien. Con trai ông là PépinLe Bref được đức Stêphano II xức dầu năm 754 tại nhà thờ Saint Denis, sẽ đem quân cứu Roma khỏi quân Lombard và tặng cho ngài Nước Tòa Thánh. Giáo hoàng trở thành vua dưới sự bảo trợ của Vua Pháp.
Hoàng đế Charlemagne (768-814) hoàn tất tham vọng của tổ tiên là tái lập đế quốc Tây phương. Hoàng đế đuồi người Ả-Rập khỏi vùng Bắc Tây Ban Nha, cưỡng bách dân Saxe theo đạo (785). Đức Leo III, sau khi nhờ Charlemagne minh oan đã gởi Hoàng đế chìa khóa Đền thờ Pherô và hiệu kỳ Roma.
Năm 800, ngài đặt vương miện vàng cho Hoàng đế trước mộ thánh Phêrô, đưa ông lên đỉnh cao danh vọng. Biến cố đánh dấu việc Roma thoát ly khỏi ảnh hưởng chính trị của Byzantin. Tòa Thánh bắt tay với nhà Carolo. Một xã hội mới bắt đầu với hai thủ lãnh là Giáo hoàng và Hoàng đế, cùng đại diện Thiên Chúa để phục vụ con người.
3,2. Tổ chức, sinh hoạt Giáo hội
Charlemagne đồng hóa tôn giáo với chính trị. Ông coi truyền giáo là mở rộng biên cương và bênh vực đạo là bảo vệ xã tắc. Dân phải trung thành với Hoàng đế lẫn Giáo Hoàng. Vua chọn các giám mục và đan viện trưởng như các viên chức cao cấp của triều đình. Giáo hội chỉ giữ hai đặc quyền : đặt vương miện cho hoàng đế, quyền đề cử và truyền chức. Dân chúng tại Saxe bị cưỡng bách giữ đạo, dù rằng họ sẽ bỏ đạo, khi triều đình không còn mạnh như trước.
Điều tích cực nhất của Charlemagne là đẩy mạnh phong trào văn hóa. Ông mở hàn lâm viện ở Aix la Chapelle mà đa số thành viên là các đan sĩ. Các vị này là cố vấn Hoàng đế, đã ảnh hưởng không nhỏ đến luật lệ trong nước. Thế nhưng Thánh Benedicto d’Anian phải cố gắng lắm để lấy lại được truyền thống bầu đan viện trưởng. Ngoài ra Charlemagne còn buộc dùng La ngữ trong các trường. Giáo hội ủng hộ ông và đi tiên phong trong việc giáo dục, tổ chức đào sâu hơn về Kinh Thánh, Giáo Phụ và Phụng Vụ. Thần học nhờ đó tái xuất hiện.
Phụng vụ Giáo hội có một số thay đổi : thống nhất cử hành bằng La ngữ dù dân không mấy người hiểu. Họ tham dự như dự những cuộc lễ bí mật, long trọng và thiêng thánh. Các nghi thức chữ đỏ đều thành luật như việc dùng bánh không men, linh mục dâng lễ quay lên (hướng Đông). Việc xưng tội riêng được các đan sĩ Ái Nhĩ Lan phổ biến.
Ngoài lợi tức ruộng đất, Giáo hội còn có ngân khoản thuế thập phân (1/10 lợi tức) thường được chia ba : cha sở một, giáo xứ một, còn lại để giúp người nghèo. Giáo hội, nhất là các đan viện, đảm nhiệm nhiều cơ sở cứu tế xã hội và bảo đảm công ăn việc làm cho nhân dân trong vùng.
Tuy nhiên, càng liên kết với nhà Carolo, hai Giáo hội Đông – Tây càng xa nhau hơn, vì phía Constantinople chỉ coi Charlemagne là kẻ tiếm quyền.
TOÁT YẾU
1. Đầu thế kỷ V, đế quốc Tây Roma bị xâm chiếm bởi các sắc dân phía Bắc (German : Franc, Anglo-Saxon, Suève, Lombard…) và phía Đông (Hung Nô). Thế kỷ VIII, các sắc dân Slave (Russo, Tiệp, Bungar…) ồn định tại Đông Âu. Năm 476, Odoacre truất phế hoàng đế Romalus. Đế quốc Đông phương vẫn tồn tại đến thế kỷ XV.
Trong hoàn cảnh đó, các Giám mục có vai trò rất quan trọng để định hướng cho lịch sử. Từ những nhà bảo vệ đô thị, các vị ồn định nhân tâm, bênh vực người khốn khổ hoặc trung gian hòa giải với những ông chủ mới.
2. Từng khối dân đón nhận Tin Mừng.
Giáo hội đã cảm hóa từng dân tộc : giai đoạn đầu nhờ uy tín các Giám mục, nhờ trung gian các nữ hoàng hoặc do phép lạ khiến nhà vua đón nhận Tin Mừng kéo theo cả khối dân theo đạo; giai đoạn sau nhờ các đan sĩ nhiệt tình, cảm hóa nhân tâm bằng tài thuyết giảng, bằng gương sáng và nhất là qua tổ chức đan viện nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của họ.
3. Giáo hội thời Carolo
Năm 800, Charlemagne được xức dầu phong hoàng đế mở đầu một giai đoạn mới. Từ nay Giáo hội Tây Âu có hai thủ lãnh là Giáo Hoàng và Hoàng đế. Hoàng đế xen vào nội bộ, chức sắc Giáo hội, ngược lại Giáo hội có hoàn cảnh đóng góp đặc biệt trong mọi tổ chức văn hóa lẫn kinh tế. Latinh trờ thành ngôn ngữ chính thức.
CÂU HỎI
1. Kể sơ lược các khối Man Dân chính ?
2. Lý do khiến Man Dân tuy yếu vẫn thắng ?
3. Vai trò các Giám mục trước xâm lăng của Man Dân ?
4. Khái quát phương pháp truyền giáo thế kỷ V – X
5. Bản đổ tôn giáo thế kỷ VIII
6. Tại sao Giáo Hoàng cấm phụng vụ Slave ?
7. Vì sao nước Nga lại liên kết với Byzantin ?
8. Lợi, hại việc Giáo Hoàng liên kết với Charlemagne.
BÀI ĐỌC THÊM
MAN DÂN
Các chủng tộc man dân đến nay là các chủng tộc Âu châu. Nhưng so với văn hóa Roma thời đó, họ bị gọi như vậy. Có ba khối Man Dân chính
a. Tây Âu : Dân German, to lớn, khỏe mạnh, chất phác và ngay thẳng. Có hai ngành :
* Teutonique gồm : Franc, Bourgon, Anglo, Saxon, Alaman
* Goth : Ostrogoth (Đông) và Visigoth (Tây) gồm : Suève, Vandale, Herule, Lombard.
b. Đông Âu : Chủng tộc Slave, tính hăng hái, ưa di động.
Gồm : Russo (Đông), Bulgare (Nam), Tcheque (Tây).
c. Á châu : thường di dân để tìm đất sống, tàn phá những vùng chống cự, sau đó rút về đồng vắng. Gồm Hung nô, Avar, Magyar, Turco
HỒI GIÁO THẾ KỶ VIII
Hồi Giáo (622) của Đức Mahomet (570-632) đem lại cho người Ả-rập một năng lực mới. Họ tiến quân như vũ bão. Syrie, Ai-Cập muốn thoát ảnh hưởng Constantinople, đón tiếp họ năm 636-641.
Giêrusalem thất thủ năm 638, Alexandria 642, Ba-Tư 657, Bắc Phi bị chiếm năm 670, rồi Tây Ban Nha năm 711. Năm 732, dân Pháp bắt họ dừng bước tại Poitiers.
Vì thế, các Giáo hội Kitô kỳ cựu bị Ả-Rập đô hộ.
Tại Đông phương : Các Giáo hội bị tàn lụi chậm, nhưng vẫn tồn tại, nồi tiếng là nhóm Coptes ở Ai Cập và Maronites tại Liban (gọi theo ngôn ngữ Phụng vụ).
Tại Bắc Phi số Giám mục năm 670 là 40, năm 1053 chỉ còn 4 vị. Đầu thế kỷ XII số tín hữu cuối cùng biến mất.
* * *
Sự thống trị của Ả-Rập ở miền Nam đế quốc xưa, khiến việc giao dịch Đông Tây bằng đường biển thêm khó khăn. Đang khi đó các chủng tộc Slaves dần dần định cư ở Đông Âu, tạo nên hàng rào chắn giữa Đông Phương Hy Lạp và Tây Phương La Tinh. Bản đồ Giáo hội có những thay đổi lớn.
Đế quốc Đông Phương bị Ả-Rập chiếm phía Nam, bị dân Slaves chiếm phía Tây và Bắc, nay chỉ còn là đế quốc Byzantin. Thế nhưng, vì các giáo tòa Alexandria, Giêrusalem, Antiokia đã bị chiếm, vai trò giáo chủ Constantinopoli trở thành lãnh tụ Giáo hội Đông Phương, đối đầu với Giám mục Roma.
TỪ THẨM MỸ ĐẾN THẦN THÁNH
(…) Nhưng các bài thuyết pháp, học thuyết và kinh bổn chưa đủ giải quyết vấn đề theo đạo nào. Tai nghe chưa đủ mà cần mắt thấy. Vì vậy, năm 987, theo lời khuyên của các chư hầu, Wladimir cử mười người nhân hậu và lanh lợi đến tận nơi mục kích thực trạng từng tôn giáo ra sao.
Thi hành sứ mạng, các sứ giả thấy tư thế, kiểu cách cầu nguyện của người Hồi Giáo thật kỳ lạ : “Ở họ chẳng thấy có niềm vui nào”. Về nghi lễ Latinh, họ nói : “Ở đây chúng tôi không thấy bóng dáng của cái đẹp”. Trái lại ở Constantinople, họ được dự những lễ nghi diễm lệ, uy nghi tại đền Sophia, họ kể cho nhà vua rằng :
“Chúng tôi không hiểu mình ở Thiên Đàng hay trần gian nữa, vì ở trần gian không thể nào có sự đẹp đẽ rực rỡ đến như vậy, đến nỗi chúng tôi không biết miêu tả thế nào. Chúng tôi chỉ biết rằng : Ở đó Thiên Chúa hiện diện giữa loài người và những nghi thức phụng tự của họ giá trị hơn bất cứ những nơi khác”.Bây giờ nhà vua có thể chọn lựa.
(Thông tin Unesco th.6-1988, trang 9).
TẠI BELEM, GIÊRONIMO NGHE TIN ROMA THẤT THỦ
“Bất ngờ, người ta cho tôi hay Roma bị chiếm, một số lớn bạn hữu tôi đã chết. Tôi thấy rụng rời, ngao ngán phát điên lên…Tôi đau đớn mãnh liệt, lòng tôi bị xáo trộn và tôi cảm thấy như lửa cháy trong mình.
Không có gì lâu dài mà không có tận cùng ; nhiều thế kỉ đã trôi qua và người ta có lý để nói rằng bất cứ cái gì khởi sự đều sẽ phải hư đi, bất cứ cái gì lớn lên đều phải chấm dứt. Chẳng có tạo vật nào không bị già nua rồi biến mất. Thế nhưng, Roma ! Ai có thể nghĩ đến Roma được xây dựng bằng chiến thắng khắp thế giới, lại sụp đỗ trở thành mổ chôn do các dân mà nó là mẹ ?
Khắp các bờ biển Đông phương, Ai cập, Phi Châu giờ đây đầy dẫy những trẻ thơ, nô lệ và tị nạn của nó. Ai có thể nói được thánh địa Giêrusalem mỗi ngày tiếp nhận bao nhiêu người hành khất, những ông bà quí phái và giàu có xưa kia. Than ôi, chúng tôi không thể cứu trợ tất cả, nhưng ít ra chúng tôi cùng hòa nước mắt với họ.
(Giêronimo “Lời tựa chú giải Ezékiel” – JC. Để đọc LSGH. I,p.123)
ĐỊNH HƯỚNG LỊCH SỬ
“Biết đâu ? Có thể nhờ man dân xâm lấn đế quốc, để khắp nơi từ đông sang tây, các nhà thờ Chúa Kitô sẽ có những người Hung nô, Suève, Vandales, Bourgondes và các chủng tộc khác bên cạnh các tín hữu. Nếu nhờ sự hủy hại, bao dân tộc nhận biết chân lý mà họ không có cách nào khác để tiếp xúc, thì phải ca ngợi chúc tụng tình thương của Thiên Chúa biết bao”.
(Orose, Lịch Sử Chống Man Dân – JC Để đọc LSGH. I,p125)
VIỆC CLOVIS TRỞ LẠI
Đạo quân của Clovis bắt đầu tan rã, thấy thế, vua Clovis giơ tay lên trời, nước mắt trào ra vì xúc động, và cầu khẩn :
“Lạy Đức Giêsu Kitô mà Clotilda quả quyết là Con Thiên Chúa hằng sống, người ta nói ngài cứu giúp những ai lâm nguy và ban chiến thắng cho những ai tin cậy nơi ngài, vậy tôi tha thiết cầu xin niềm vinh dự được ngài cứu giúp. Nếu ngài ban cho tôi chiến thắng kẻ thù, và chớ gì tôi được cảm nghiệm rõ quyền năng ngài, như dân đã hiến thánh cho ngài nói, rằng họ đã nhận được biết bao bằng chứng, thì tôi sẽ tin vào ngài và rửa tội nhân danh ngài. Vì tôi đã kêu cầu các thần của mình, và thấy rõ họ chẳng giúp gì cho tôi. Vậy tôi kêu cấu ngài, tôi ước ao tin vào ngài, chỉ xin cho tôi thoát tay kẻ thù”.
Khi ông nói những lời này, dân Alaman quay lưng lại và bắt đầu tháo chạy…
(Gregorio thành Tours (538-594) Lịch Sử Nước Pháp,
– JC Để đọc LSGH. I,p125)
HAI PHƯƠNG THẾ NHẰM HOÁN CẢI LƯƠNG DÂN
Lời khuyên của Giáo hoàng Gregorio cả gởi thánh giám mục Augustin, đan sĩ truyền giáo ở Anh.
“Phá hủy các đền thờ lương dân càng ít càng tốt chỉ hủy các tượng thần, rảy nước thánh trên chúng (đền thờ), lập các bàn thờ, đặt các thánh tích trong các kiến trúc này, để nếu các đền thờ có cấu trúc tốt, ta chỉ thay dụng đích của chúng, xưa là đổ thờ tự ma qủi, thì nay trong đó ta thờ lạy Thiên Chúa đích thực. Như thế, dân chúng thấy các đền thờ của họ không bị phá hủy, họ sẽ quên đi những lầm lạc của họ, và nhờ nhận biết Thiên Chúa đích thực, họ sẽ đến thờ lạy Ngài tại chính nơi tổ tiên họ đã đến hội họp. Và bởi họ đã có thói quen tế nhiều bò cho quỉ thần, ta nên không thay đổi gì trong các phong tục ngày lễ hội của họ. Như thế, vào ngày kỷ niệm cung hiến nhà thờ hoặc ngày lễ các thánh tử đạo có thánh tích đặt trong nhà thờ, cứ để họ dựng các lều đơn sơ bằng cành lá quanh nhà thờ như họ đã làm quanh các đền ngoại giáo ; cứ để cho họ mừng lễ bằng các bữa tiệc có tính tôn giáo.
Khi cho phép họ bộc lộ niềm vui theo cách cũ như thế, ta sẽ dễ dàng dẫn họ đến niềm vui nội tâm ; vì rõ ràng không thể loại tất cả một lúc trong những tâm hồn còn thô sơ như thế. Ta không leo núi bằng cách nhảy vọt lên, nhưng bằng những bước chậm rãi.
(Gregorio Le Grand, Lettres XI,56 – JC. Để đọc LSGH I,t.129)
THÁNH BONIFACIO
Sau khi đặt xong nền móng Giáo hội Hà Lan (Frisa), thánh Bonifacio liền tiến sang xứ Hesse và Thuringia. Việc trước tiên thánh nhân phải làm là sửa lại những thiếu sót trong việc truyền giáo trước mà nay còn lại nhiều vết tích dị đoan.
Với sự đồng ý của Đức Gregorio III, thánh nhân tổ chức hàng Giáo phẩm, phân lãnh thổ Đức thành nhiều Địa phận: mỗi Giám mục mang trách nhiệm một vùng nhất định, và từ nay giáo dân trực thuộc hàng Giáo phẩm địa phương. Vì tại Đức quốc chưa có nhiều đô thị, nên thánh Bonifaciô phải chọn những địa điểm thuận lợi hơn để đặt giáo phủ. Những giáo phủ và đan viện ngài xây dựng chẳng bao lâu sẽ trở thành những trung tâm trọng yếu và đô thị lớn.
Mặc dầu đã được tấn phong Tổng Giám mục, nhưng do đặc ân dành cho một số thừa sai thế kỷ trước, và nhất là để hoạt động truyền giáo đắc lực hơn, thánh Bonifacio không trực tiếp đảm nhận một địa phận nào. Mãi đến năm 745, ngài mới chọn Mainz làm trụ sở. Khi cuộc đời đã về chiều, thánh nhân chỉ còn mong một điều là được qua những ngày cuối cùng tại Đan viện Fulda yêu quí của ngài, để được an nghỉ tại đó. Không ngờ trong một chuyến truyền giáo cuối cùng ở Hòa Lan, ngài lọt vào tay người Thần giáo và được phúc tử đạo ngày 5-6-755
Theo Bùi đức Sinh LSGH I,tr.235-236
CYRILLO VÀ METHODO
Khi các ông hoàng Slaves mới rửa tội là Rastilav, Sviatopolk và hoàng thân Kolsel viết thư cho hoàng đế Constantinople là Michael (842- 876) rằng : quê hương chúng tôi đã được rửa tội nhưng chưa có thày giảng đạo biết dạy và giải thích kinh thánh. Chúng tôi không hiểu tiếng Latinh lẫn HiLạp nên kẻ bảo thế này người nói thế khác. Do đó, xin ngài gửi cho chúng tôi những tôn sư có thể giải thích chữ và tinh thần sách thánh.
Nghe thế, Michael liền triệu tập tất cả các triết gia hỏi ý kiến. Họ đáp : Ở Thessalonica, gia đình ông Lêo có hai người con thông thạo tiếng Slave, thành thạo khoa học và triết học …
Đến nơi, Cyrillô và Methođô liền sáng lập ra mẫu tự Slave rồi dịch Phúc âm và sách Tông đồ công vụ. Dân Slave rất hân hoan khi được nghe những điều vĩ đại của Chúa bằng ngôn ngữ của mình […]
Nhưng một một số người phản đối tiếng Slave thì nói : không dân tộc nào có quyền có mẫu tự riêng, chỉ trừ tiếng Do thái, Hilạp và Latinh đã được Philatô cho ghi trên Thánh giá.
Giám mục Roma là đức Gioan VIII nghe thế, khiển trách những người chống Kinh Thánh Slave rằng: “Chớ gì Lời Kinh Thánh được hoàn tất, chớ gì mọi ngôn ngữ đều chúc tụng Chúa”
(Chronique de Nestor, bản văn thế kỷ IX – JC,Để đọc LSGH I, p 133)
ĐỨC STEPHANO V KẾT ÁN PHỤNG VỤ SLAVE
Methođô đem lại cho thính giả không phải điều xây dựng hay an bình mà là sự nghi ngờ và chia rẽ (…).
Việc cử hành phụng vụ bằng tiếng Slave chưa từng được ai cho phép (…).
Vì thế nhân danh Thiên Chúa và quyền tông đồ, ta cấm và ra vạ tuyệt thông cho những ai tuyên đọc Phúc âm và Thánh thư bằng tiếng Slave.
(Milot, l’Epopée missionnaire – JC,Để đọc LSGH I,p 134)
CHARLEMAGNE HOÀNG ĐẾ
Việc đức Lêo III đặt vương miện cho hoàng đế Charlemagne trước mộ thánh Phêrô đã đưa ông lên tuyệt đỉnh danh vọng, đánh dấu việc thoát ly chính trị khỏi Byzance. Địa vị Giáo hoàng từ nay không khác một chư hầu. Dù được trọng kính và giàu có, các vị không có thực quyền trên các giám mục, phải tuyên thệ trung thành với hoàng đế và chịu sự kiểm soát của một đại diện hoàng đế.
Giáo hoàng chỉ giữ hai đặc quyền : là quyền xức dầu trao vương miện cho tân hoàng đế và quyền trao Pallium cho các tổng giám mục. Dẫu sao các vị vẫn giữ được những đặc quyền thiêng liêng trong những vấn đề luân lý. Như đức Nicolas I cương quyết phản đối vua Lothaire khi ông đòi li dị vợ để cưới nàng hầu, và ngài truất quyền hai giám mục bênh vực ông. Cuộc tranh chấp kéo dài chín năm ngài mới thành công, nhưng ít ra ngài cũng tỏ ra khá độc lập.
SẮC LỆNH CHARLEMAGNE CHO DÂN SAXE
“… Ai vào nhà thờ dùng sức mạnh đập phá ăn cắp món đổ nào hoặc phá hủy, sẽ bị tử hình.
Ai khinh thường đạo Chúa Kitô, không tôn trọng ngày chay: tử hình.
Ai thiêu xác người chết theo nghi lễ dân ngoại : tử hình.
Tất cả những người Saxon không rửa tội, tụ tập thành nhóm đồng hương, từ chối việc rửa tội : tử hình.
(JC,Để đọc LSGH I,p129)
ĐÔI NÉT VỀ HỒI GIÁO
Mahômét sinh tại La Mecque. Mồ côi cha mẹ, anh đến ở với một người cậu, sau được giới thiệu làm quản gia cho bà Khadija. Trên đường giao dịch thương mại, anh tiếp xúc với các tôn giáo khác gồm Dothái giáo, Kitô giáo và Bái Hỏa Giáo.
Năm 40 tuổi, Mahômét nhận được mạc khải của đức Allah qua trung gian một thiên sứ. Ông bắt đầu giảng đạo và thu phục những môn đệ đầu tiên (Ali, Aboubek, Omar, Othman). Vị tiên tri cao cả cố gắng cải cách tôn giáo và xã hội nhưng không được quí trọng tại quê hương mình. Năm 622, thày trò phải kéo nhau di tản sang lập đạo tại Medina (ngày 16.7.622 khởi đầu kỷ nguyên Hồi Giáo, biến cố Hégire).
Năm 630, ông Hồi hương trong sự đón tiếp nồng hậu của dân La Mecque. Ngày 8.6.632 đức Mahômét từ giã cõi trần để về với đức Allah. Mahômét chỉ nhận mình là tiên tri chứ không phải là Thượng Đế. Aboubek nói : “Tôn thờ đức Allah hãy nhớ ngài hằng sống, tôn thờ đức Mahomét hãy nhớ ngài đã viên tịch”.
+ Kinh Thánh của Hồi Giáo
– Sách kinh Coran do các môn sinh ghi lại lời của vị sáng lập. Sách hoàn thành năm 652, chia thành 114 đoạn, xếp theo tiêu chuẩn dài trước ngắn sau, với lối văn vần dễ cảm và dễ nhớ.
– Sách kinh Hadith ghi tiểu sử và công nghiệp đức Mahomét, bổ sung cho sách kinh Coran.
+ Danh xưng Hồi Giáo
– Musulman do chữ Muslim nghĩa là thuận thiên, quy phục Thượng Đế.
– Sarrasin : Phát xuất từ sắc tộc Aragen
– Islam : Do Mahomét xác nhận mình thuộc dòng dõi Ismael con trai Abraham
* Giáo lý
+ Chỉ có một thượng đế Allah
+ Bốn đại tiên tri Abraham, Môisen, Giêsu và Mahomét.
+ Tin phán xét, thiên đàng hỏa ngục.
+ Tin có thiên thần
* Năm giới luật chính
– Tuyên xưng :“Allah là Thượng đế tối cao và Mahomét là tiên tri ngài gửi đến”
– Mỗi ngày hướng về La Mecque cầu nguyện năm lần.
– Giữ chay suốt tháng Radaman (tháng 9 dương lịch). Những ai trên 14 tuổi sẽ nhịn ăn, nhịn rượu, nhịn đàn bà từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn.
– Hành hương La Mecque ít là một lần trong đời, để kính viếng đá tảng Kaaba.
– Dành 1/10 lợi tức để làm phúc.
Hồi giáo không có bí tích và hàng giáo phẩm. Khá giống đạo Dothái : các đạo hữu tụ họp ngày thứ sáu ở hội đường nghe sách Kinh Coran và cầu nguyện ; Cấm tạc ảnh tượng Allah ; kiêng thịt heo ; chấp nhận đa thê (bốn vợ).
* Năm giai đoạn lịch sử
+ Thời Ảrập : Triều đại Omeyyades (661-750)
+ Thủ phủ tại Damas Thời Batư (750-1258), Thủ đô Bagdad, thời cực thịnh về văn hóa
+ Thời Thổ nhĩ Kì Ottomans, Cực thịnh về chính trị, chiếm Constantinople
+ Thế kỷ XVI-XIX : bị Âu châu chia cắt và đô hộ.
+ Hiện đại (thế kỷ XX)
Các quốc gia đã dành được độc lập nhưng bị các thế lực gây chia rẽ vì vấn đề dầu hỏa…
Thống kê 1988 của Hồi giáo là 992 triệu, bằng với Công Giáo.
Năm 2000. Hồi giáo hơn Công Giáo khỏang 130 triệu người.
Tại Việt Nam chỉ có khoảng 40.000 (Tp HCM có độ 7.000 đạo hữu) (JC. Để đọc LSGH I, p 91)
Lm Phanxicô Xaviê Ðào Trung Hiệu OP
Hiệu đính tháng 9/2006