Trang Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta một trong những điều con người được nhận lãnh nhờ vào hành động phi lý ấy. Dẫu rằng là Ngôi Hai Thiên Chúa thì Chúa Giêsu đâu cần phải được hiến dâng cho Thiên Chúa theo luật Môisê nhưng rồi ta thấy Ngài vẫn tuân giữ nghi lễ này, vì Ngài muốn giống con người trong hết mọi sự ngoại trừ tội lỗi.
Chúa Giêsu đã đến trong trần gian và sống như con người để con người không còn phải e ngại khi đến với Ngài cũng như hiểu được lời mời gọi của Ngài. Nếu trước đây, Ngài đã sinh ra trong chuồng bò là để cho mọi người có thể đến với Ngài, không phân biệt giàu sang hay nghèo khổ, có địa vị hay chỉ là dân đen. Các trẻ chăn chiên được mời gọi, ba nhà đạo sĩ Phương Ðông được chỉ lối, tất cả đến với Ngài và đã tìm được nguồn vui.
Và hôm nay, Chúa Giêsu tiến vào Ðền Thánh bằng nghi lễ thanh tẩy và hiến dâng.
Thật ra chỉ có con người tội lỗi mới cần thanh tẩy, chỉ có loài thụ tạo mới cần hiến dâng. Vậy mà Chúa Giêsu Ngài vẫn chấp nhận tất cả để nên như một cơ hội quí báu cho tiên tri Siméon và Anna gặp Ngài. Niềm vui bấy lâu mong đợi, giờ đây Siméon đã đạt được như ý nguyện, giờ đây ông có thể ra đi bình an không còn gì phải tiếc nuối.
Thời gian chờ đợi luôn là thời gian dài dẵng lê thê và nếu dành cả một đời để trông ngóng đợi chờ thì không khỏi bị coi là phi lý điên rồ. Chắc chắn Siméon và Anna cũng bị gán cho nhãn hiệu này.
Cuộc đời của Bà ngôn-sứ Anna: Bà con ông Penuel, thuộc chi tộc Aser. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Một cuộc sống quanh quẩn nơi Đền Thờ như thế đã giúp Bà nhận ra những gì là chính yếu hay phụ thuộc trong cuộc đời. Khi được Thánh Thần thúc đẩy cho nhận ra Đấng Cứu Thế, Bà tiến lại gần bên Gia Đình Thánh, Bà cảm tạ Thiên Chúa và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem.
Sự kiên trì của bà đạt đến trình độ “nghệ thuật” đáng khâm phục. Xuất giá, hẳn là từ khi còn xuân xanh, bà chỉ ở với chồng được 7 năm đã trở thành goá phụ (c. 36). Với 84 tuổi đời, nếm trải nhiều đau buồn, nhưng bà luôn trải rộng tấm lòng một cách mềm mại với ơn Chúa: không oán hận trách móc Thiên Chúa. Hơn nữa, thời gian có thể cướp đi nhựa sống và xuân sắc tuổi trẻ, nhưng không thể làm mất niềm tin và hy vọng vào lời hứa cứu độ của Thiên Chúa nơi bà.
Nhiều năm dài chờ đợi và đợi chờ, bà “không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa” (c. 37) Bà chỉ ước mong một điều: được nhìn ngắm Đấng Cứu Thế dù chỉ một lần trước khi nhắm mắt. Và chỉ một lần đó thôi cũng đủ để bà trở thành sứ giả loan báo về Hài nhi cho tất cả những ai đang mong chờ Đấng Cứu Thế (c. 38).Siméon và Anna là tiêu biểu cho nhóm những người nghèo của Thiên Chúa. Họ ăn chay cầu nguyện, sống nghèo khổ để canh thức trông chờ Ðấng Cứu Thế, dù cho cuộc sống có đầy dẫy những lạc thú thì vẫn không quyến dũ được họ cho bằng niềm vui cứu chuộc họ đang trông chờ.
Thánh sử Luca cho biết vài nét về con người và cuộc đời của bà: góa bụa, tuổi cao, đạo hạnh, gắn bó với Đền thờ. Với trực giác của một ngôn sứ, bà cũng đã nhận ra Hài Nhi Giêsu mà Đức Maria và Thánh Giuse đang bồng ẵm trên tay. Bà đã nói về Hài Nhi Giêsu cho những người chung quanh. Tin Mừng hôm nay cũng được thánh sử Luca đề cao đời sống của nữ ngôn sứ tên là Anna. Bà tuy đã già, nhưng là một mẫu người Israel lý tưởng.
Ta thấy Bà đã nhận ra giá trị của món quà mà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại, nên “bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa”. Theo tập tục của người Do Thái, người phụ nữ không thể ở lại trong khuôn viên Đền Thờ vào ban đêm, nhưng tác giả Tin Mừng thứ ba muốn nhấn mạnh đến sự chuyên cần trong việc phụng tự và cầu nguyện của người Do Thái thời đó, và còn cho rằng bà Anna có những đức tính tốt lành đó. Vì thế, cả cuộc đời còn lại của bà, là gắn bó mật thiết với Chúa vì bà đã chọn Chúa.
Chính khi chọn Chúa là tất cả đời mình, tâm hồn bà tràn ngập niềm vui, khiến cho bà quên cả thân phận góa bụa – già nua của mình để chỉ ngày đêm nghĩ đến việc thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa. Hơn thế nữa, khi có cơ hội được tiếp xúc với những người thành tâm thiện chí, nhất là những người từ thành Giêsuralem đến, bà không ngần ngại nói về “Hài Nhi cho những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc” (Lc 2,38b).
Nữ ngôn sứ mà Tin Mừng thuật lại cho chúng ta hôm nay cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy là những người khôn ngoan, chọn Chúa là phần gia nghiệp đời mình và để tâm tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Nhờ đó, dù ở đâu, làm gì … chúng ta vẫn hướng về Chúa là món quà duy nhất Thiên Chúa Cha ban tặng chứ đừng hướng chiều về thế giới vật chất.
Vì thánh Gioan nói: “mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi” (1Ga 2, 16).
Khi hưởng niềm vui bất diệt ấy, họ lại chỉ không dành hết cho mình nhưng còn mau mắn chia sẻ với người khác. Bà Anna đã nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel, vì thế bà được coi là nữ tiên tri, dù rằng suốt cuộc sống bà cũng chẳng làm một điều gì như các tiên tri ở Israel.
Ngôn sứ là gì nếu không phải là kẻ truyền rao Thiên Chúa, truyền rao ơn cứu độ. Như vậy, chúng ta có thể gọi bà Anna là mẫu mực cho người tín hữu trong cuộc sống và hành động. Bà đã can đảm và chấp nhận một cuộc sống thiếu thốn trong chay tịnh và cầu nguyện, cũng như luôn hy vọng đợi chờ, dù cho sự việc chẳng biết bao giờ mới xảy ra và khi đã đón nhận hồng ân thì lại sẵn sàng truyền rao chia sẻ cho kẻ khác. Hồng ân bà nhận được hôm nay luôn là một chứng từ thôi thúc tín hữu thêm lòng cậy trông, vì Thiên Chúa sẽ không chê bỏ những ai đặt hết hy vọng vào Ngài.
Bà Anna trong trang Tin Mừng hôm nay là người đã thực hiện vai trò truyền giáo của mình một cách thiết thực bằng chính cuộc sống của mình: bà đã can đảm chấp nhận một cuộc sống nghèo nàn, đơn sơ trong chay tịnh và cầu nguyện để trông chờ Đấng Cứu Thế. Chắc chắn trong suốt thời gian sống ẩn dật, bà đã “nói với Chúa” rất nhiều về con người trong thời đại đó và về nỗi khát khao ơn cứu độ của họ.
Được Chúa thương cho diện kiến Vị Cứu Độ trần gian và được đụng chạm đến Người, bà đã không giữ lại cho riêng mình nhưng ngay lập tức “nói về Chúa”, công bố tình thương Chúa cho mọi người. Qua đó, sứ mạng của nhà truyền giáo được thực hiện một cách trọn vẹn, đầy đủ, đầy lòng tin và sự nhiệt thành. Bà Anna là mẫu mực cho mọi kitô hữu trong cuộc sống và hành động trong việc loan truyền Lời Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết bắt chước như bà Anna là sẵn sàng đón nhận những đau khổ, những phi lý về ơn cứu độ và nhất là luôn nhớ sứ mệnh ngôn sứ tri đã được trao ban từ ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội, để rồi ta có thể bắt chước thánh Phaolô mà nói được như Ngài: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Ðức Kitô”.
Huệ Minh