Bách hại có thể định nghĩa chung là tình trạng áp bức phi pháp đối với sự tự do của người khác hoặc sự trừng phạt phi pháp, bởi vì không phải hình phạt nào cũng có thể được coi là bách hại. Đối với mục đích của chúng ta, bách hại phải là việc hạn chế tôn giáo, là cách áp bức hoặc đàn áp phi pháp nhằm hạn chế tôn giáo.
Giáo hội đã và đang chịu nhiều kiểu bách hại. Sự hiện hữu và sự phát triển của Kitô giáo đã bị cản trở bởi chủ nghĩa ngoại giáo và chủ nghĩa ngu dốt. Trong thời đại gần đây, thuyết bất khả ngộ đã quấy nhiễu Giáo hội tại nhiều nơi ở Mỹ châu và Âu châu. Nhưng tồi tệ nhất trong các kiểu bách hại là Công giáo đã phải chịu đựng từ chính các Kitô hữu khác.
Về vấn đề này, phải nói rằng Giáo hội đã phải dùng sức mạnh, không chỉ để tự bảo vệ, mà còn để đẩy lùi các tà thuyết, các đợt tấn công của các phe đối lập. Đó chính là phương tiện Tòa án Dị giáo (Inquisition) hoặc chiến tranh tôn giáo trong thời Trung Cổ và trong thời Cải Cách (Reformation).
Chúng ta có thể chấp nhận sự thật, chứ chưa từ chối kết luận. Giáo hội chỉ muốn chuyển tải sứ điệp của Thiên Chúa mà thôi. Chúng ta cần phân biệt giữa người ngoại giáo và Kitô hữu. Quyền lực không được áp dụng để chống lại người ngoại giáo hoặc người Do Thái, như Thánh Phaolô nói: “Xét xử người ngoài đâu phải là chuyện của tôi. Còn người trong đạo, anh em không được xét xử hay sao? Người ngoài, chính Thiên Chúa sẽ xét xử. Hãy khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh em” (1 Cr 5:12-13).
Những cuộc đối thoại cưỡng ép đã xảy ra vào những thời điểm khác nhau trong lịch sử của Giáo hội, người ta đổ lỗi cho lòng nhiệt thành của những người chuyên quyền được đặt không đúng. Nhưng Giáo hội đòi hỏi quyền được phép bắt buộc thần dân của mình. Các Kitô hữu ngoài Công giáo cũng vẫn là thần dân của Đức Giêsu Kitô, nhưng Giáo hội đối xử với họ như thể họ không là thần dân của mình. Sắc lệnh “Ne Temere” (nói về hôn nhân khác đạo), được ĐGH Piô X ban hành (2-8-1907), nhận thấy hôn nhân của người Tin Lành là có giá trị, mặc dù không không được ký kết theo điều kiện của Công giáo, và luật kiêng cữ không được coi là liên kết đối với người Tin Lành. Vì thế, về việc dùng quyền bắt buộc, Giáo hội chỉ thực hiện quyền đối với những người mà Giáo hội thấy họ bội giáo công khai.
Một người Tin Lành hiện đại không thuộc phạm trù tương tự với những người theo thuyết Albigenses (1) cũng vậy. Những người này chịu trách nhiệm về việc bội giáo của họ. Hơn nữa, mục đích của Giáo hội không chỉ bảo vệ đức tin chính thống, mà còn phạt những người bội giáo. Sự bội giáo công khai được coi là tội phản bội Thiên Chúa – tội này nặng hơn tội chống lại người lãnh đạo dân sự. Tới thời kỳ mới đây, tội chống lại người lãnh đạo dân sự bị phạt rất nặng. Tội bội giáo là tội đầu độc sự sống linh hồn của người khác (Thánh Tiến sĩ Thomas Aquinas, II-II, Q. xi, khoản 3, 4.)
Do đó, không thể nghi ngờ rằng Giáo hội đòi quyền được ép buộc chống lại những người bội giáo công khai. Dĩ nhiên là KHÔNG, ngày nay Giáo hội vẫn dùng quyền của mình theo cách tương tự, ngay cả đối với một quốc gia Công giáo có các Kitô hữu bội giáo. Giáo hội chỉnh sửa quy luật cho phù hợp với thời đại và hoàn cảnh để có thể thực hiện mục đích hữu ích. Con cái của Giáo hội không bị phạt tiền, phạt tù hoặc các hình phạt theo thế gian, nhưng là hình phạt theo tâm linh và dứt phép thông công (vạ tuyệt thông). Đối với những người theo tà thuyết hoặc rối đạo, Giáo hội coi họ như người ngoại giáo: “Fides suadenda est, non imponenda – Đức tin là vấn đề của sự thuyết phục, không thể ép buộc”. Đó là ý kiến của Thánh Basil (“Revue de l’Orient Chrétien”, 2nd series, XIV, 1909, 38), và Thánh Ambrôsiô (thế kỷ IV) đã áp dụng điều đó khi đối xử với những người bội giáo công khai.
Nên nhớ rằng khi Giáo hội dùng quyền ép buộc đối với những người bội giáo công khai, quyền đó được được chấp nhận. Những người trong Giáo hội có ý tưởng về thời gian đối với lý do và cách thức mà vạ tuyệt thông nên được áp dụng. Cũng vậy, Tòa án Inquisition rất khác với Inquisition của Tây Ban Nha, và các giáo hoàng không chấp nhận cách xử thô bạo của Tây Ban Nha. Hơn nữa, các ý tưởng như vậy về việp ép buộc trong vấn đề tâm linh không riêng gì đối với người Công giáo. Các nhà cải cách không kém quan trọng hơn, nhưng nếu có gì quá đáng thì không thể khoan nhượng. Nếu sự khoan dung đối với những người trong Giáo hội là điều đáng khiển trách, sự khoan dung đối với các nhà cải cách là điều đáng khiển trách gấp đôi.
Từ quan điểm của họ, đó là vô lý, không thể biện hộ. Thứ nhất, họ đã chống lại quyền được thiết lập của Giáo hội; thứ nhì, họ hầu như không thể dùng sức mạnh để ép buộc những người không muốn thích nghi với quy tắc phán đoán riêng của họ. Với sự phân ranh giới rõ ràng này về sự phán đoán riêng của các nhà cải cách từ quyền của Công giáo, nó khó có thể phục vụ mục đích của chúng ta để đánh giá sự dữ dội của Công giáo và Tin Lành trong thời Cải Cách. Cũng nên nhớ rằng các phương pháp độc ác của Inquisition ở Tây Ban Nha và Ý vẫn ít hủy hoại sự sống hơn so với chiến tranh tôn giáo ở Pháp và Đức. Tuy nhiên, mục đích của chúng ta là lưu ý sự không khoan dung thẳng thắn của những người lãnh đạo Tin Lành, vì điều đó trao quyền thêm cho Giáo hội để nhờ tới sức mạnh. Giáo hội phạt các thần dân và tự bảo vệ khỏi các đợt tấn công của họ.
Tuy nhiên, sự cưỡng bức đó được sử dụng bằng quyền hợp pháp, không thể gọi đó là bách hại, cũng không thể gọi các nạn nhân là các vị tử đạo. Điều đó chưa đủ để những người bị kết án tử là những người chịu đau khổ vì tôn giáo của mình. Một người tử đạo là nhân chứng của sự thật, chịu cực hình vì Giáo hội. Sự mặc khải không thể là sứ điệp siêu nhiên của Thiên Chúa dành cho các thụ tạo của Ngài, các sứ giả đó có quyền và có nhiệm vụ loan báo sứ điệp đó tới mọi nơi và mọi lúc. Họ chết khi loan báo sứ điệp hoặc làm chứng về chân lý của Thiên Chúa, họ chịu đau khổ vì Ngài.
Kinh Thánh cho biết một số cách “cụ thể” về tình trạng chịu bách hại vì Chúa:
– Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15:20-21).
– Khi người ta bách hại anh em trong thành này thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em: anh em chưa đi hết các thành của Ít-ra-en thì Con Người đã đến. Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống chi là người nhà (Mt 10:23-25).
– Những ai muốn sống đạo đức trong Đức Kitô Giêsu đều sẽ bị bắt bớ” (2 Tm 3:12).
Từ xa xưa cho tới trước thế kỷ XIX có rất nhiều cuộc bách hại được ghi lại trong bộ sách “Les Martyrs” (Các Vị Tử Đạo – 5 cuốn, Paris, 1902-09).
BÁCH HẠI THỜI KỲ RÔMA (52-312)
Có nhiều cuộc bách hại trong thời kỳ này, một thời gian khá dài, được coi là mãnh liệt và dữ dội.
Ngày xưa, khi người ta đã hỏi và Chúa Giêsu trả lời rạch ròi: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8).
Ông Phêrô và các tông đồ đã mạnh dạn nói với những người muốn bách hại: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người” (Cv 1:29-32).
Trong lá thư thứ nhất, Thánh Phêrô cũng đề cập việc “làm chứng về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu Kitô” (1 Pr 5:1), và rồi Thánh Phêrô cho biết: “Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Kitô. Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1 Pr 5:10).
THỜI KỲ JULIAN BỘI GIÁO (361-363)
Sắc lệnh khoan dung của Constantine đã tăng tốc chiến thắng cuối cùng của Kitô giáo. Nhưng các biện pháp cực đoan đối lập với tôn giáo cổ xưa của đế quốc, mặc dù họ không thực hiện nghiêm khắc, nhưng vẫn khơi dậy sự đối lập. Khi người bội giáo Julian (361-363) lên ngôi, ông ủng hộ những người bảo vệ chủ nghĩa ngoại giáo, mặc dù ông cố gắng củng cố tôn giáo cũ bằng cách khuyên làm việc bác ái và linh mục phải sống nghiêm túc để rao giảng và hướng dẫn. Nhưng ông là người bội giáo, Giáo hội không thể ủng hộ ông, do đó giáo phái Donatism (2) và tà thuyết Arianism (3) có cơ hội trở lại.
Hoàng đế “ngại” bách hại trực tiếp, nhưng lại ngấm ngầm xúi giục các Kitô hữu và kích thích những người ngoại giáo nổi lên chống Công giáo – đặc biệt là tại Alexandria, Heliopolis, Maiouma, cảng Gaza, Antioch, Arethusa và Cæsarea ở Cappadocia (x. Grergory of Nazianzus, Orat. IV, 86-95; P.G., XXXV, 613-28). Tại các nơi khác, nhiều người chịu bách hại và chịu chết vì đức tin. Trong số những người chịu tử đạo thời kỳ này có quản gia Gioan và viên thư ký Phaolô ở Rôma, hai binh sĩ là Juventinus và Maximian (x. Bài giảng của Thánh Gioan Chrysostom trong P.G., L, 571-77); Macedonius, Tatian và Theodulus ở Meros thuộc Phrygia (Socrates, III, 15; Sozomen, V, 11); và LM Basil ở Ancyra (Sozomen, V, 11). Chính Julian đã ra lệnh xử tử quản gia Gioan và viên thư ký Phaolô ở Constantia, và cô con gái của Constantine. Tuy nhiên, ông trị vì chỉ có hai năm nên cuộc bách hại cũng mau qua.
TẠI BA TƯ
Khi chính quyền Rôma bỏ lệnh bách hại không thể, người Ba Tư lại không ưa tôn giáo mới này. Cuộc bách hại lại bắt đầu vào năm 339 hoặc 340. Họ phá hủy hoặc chiếm các nhà thờ, tìm bắt giết các giáo sĩ. Theo Sozomen (Lịch Sử Giáo Hội II.9-14), con số nạn nhân không dưới 16.000 người, trong số đó có ĐGM Symeon của GP Seleucia. Vua Bahram V (420-438) đã ra lệnh bách hại dữ dội trong một năm, sau đó ký hiệp ước với vua Theodosius II (422), bảo đảm cho phép tự do lương tâm đối với các Kitô hữu.
Sau đó, vua Yezdegerd II (438-457), người kế vị, lại bắt đầu cho bách hại vào năm 445 hoặc 446, traces of which are found shortly before 450. Cuộc bách hại của vua Chosroes I trong những năm 541-545 trực tiếp nhắm vào các giáo sĩ. Ông cũng triệt tiêu các nhà thờ và các các tu viện, kể cả các nhà quý tộc người Ba Tư đã trở thành Kitô hữu. Cuộc bách hại cuối cùng là của vua Chosroes II (590-628), nhắm vào các Kitô hữu giống như trong thời gian các năm 627-628. Nói chung, thời gian nguy hiểm cho Giáo hội ở Ba Tư là lúc các vua chiến tranh với Đế quốc Rôma.
GIỮA NHỮNG NGƯỜI GÔ-TÍCH (Goths)
Kitô giáo được người Gô-tích biết đến vào khoảng giữa thế kỷ III, and “Theophilus Episcopus Gothiæ” was present at Công đồng Nicê (năm 325). Nhưng họ dùng GM Ulfilas (340-383), một người theo tà thuyết Arianism. Tà thuyết này được nhiều người ở Dacia (Transylvania và Tây Hungary) tin theo, họ những người ngoại giáo gia nhập đạo. Tà thuyết này lan tới miền Hạ Mœsiaacross sông Danube, khi người Gô-tích cai quản, sau cuộc bách hại dữ dội khiến GM Ulfilas và và những người trở lại phải rời bỏ quê hương, có thể vào năm 349.
Cuộc bách hại thứ nhất do vua ngoại giáo Athanaric khởi xướng, bắt đầu khoảng năm 370 và kéo dài vài năm (khoảng 6 năm). Thánh Sabas bị dìm nước chết vào năm 372, còn những người khác bị thiêu sống. Thế kỷ VI và VII, người Gô-tích xâm lăng Ý, Gaul, và Tây Ban Nha, các nhà thờ bị cưỡng đoạt, và các giáo sĩ Công giáo bị sát hại. Tại Tây Ban Nha cũng có bách hại trong những năm 476-586. Một cuộc bách hại khác do Agila (549-554) khởi xướng, sau đó là Leovigild (573-586). Các giám mục bị đi đày, tài sản của Giáo hội bị tịch thu. Nhưng rồi Hermenigild, con trai của ông, gia nhập Công giáo và chịu tử đạo hồi thế kỷ VII.
Cuộc bách hại khác do Theodoric (524-526). Một trong những người bị bách hại là ĐGH Gioan I, bị chết trong tù.
TẠI Ả RẬP
Kitô giáo du nhập vào Nam Ả Rập (Yemen) hồi thế kỷ IV. Thế kỷ VI, các Kitô hữu bị bách hại dữ dội theo lệnh vua Dunaan, người Do Thái. Số nạn nhân khoảng 5.000 người, trong đó có công chúa Arethas, bị giết khoảng năm 523 sau cuộc chiếm giữ Nagra. Các tín hữu được giải thoát khỏi thời kỳ này nhờ sự can thiệp của vua Abyssinia, nhưng rồi lại gặp rắc rối khi quân Hồi giáo xâm chiếm.
THỜI KỲ HỒI GIÁO
Với sức lan tỏa của Hồi giáo ở Syria, Ai Cập, Ba Tư và Nam Phi, there went a gradual subjugation của Kitô giáo. At the first onset of invasion, in the eighth Century, nhiều Kitô hữu bị giết vì “tội” không chịu bội giáo. Sau đó, họ bị coi là các nô lệ, chịu sưu cao thuế nặng, bị cướp tài sản hoặc bị giết chết vì tính thất thường của vua Hồi giáo hoặc quần chúng. Tại Tây Ban Nha, người cai trị Hồi giáo đầu tiên đã bách hại các Kitô hữu là Phó vương Abderrahman II (821-852). Cuộc bách hại bắt đầu năm 850, rồi Mohammed (852-887) tiếp tục bách hại, và kéo dài tới năm 960, khi các Kitô hữu đủ mạnh để vượt qua những kẻ bách hại. Con số các vị tử đạo còn ít, trong đó có TGM Eulogius, TGP Toledo, bị sát hại ngày 11 tháng 3 năm 859.
THỜI KỲ BÀI TRỪ ẢNH TƯỢNG
Rắc rối xảy ra với Giáo hội Đông phương là các hoàng đế bài trừ ảnh tượng trong suốt 120 năm. Hoàng đế Leo III ra hai chiếu chỉ bài trừ ảnh tượng vào năm 726 và năm 730. Các chiếu chỉ này được áp dụng triệt để. ĐGH Grêgôriô II và ĐGH Grêgôriô III đã lên tiếng phản đối nhà cải cách chuyên chế, nhân dân cũng nổi lên chống lại. Nhưng Hoàng đế Constantine V (Copronymus, 741-775) tiếp tục chính sách của cha, triệu tập Công đồng tại Constantinople năm 754 và rồi bách hại những người chính thống. Các tu viện bị phá hủy, các tu sĩ bị hành hạ tới chết. Dưới triều Hoàng đế Constantine VI (780-797), do ảnh hưởng người mẹ, nhiếp chính Irene, Công đồng Đại kết Đệ thất (Seventh Œcumenical Council) được triệu tập vào năm 787, và hủy bỏ sắc lệnh của Công đồng Copronymus.
Triều đại Hoàng đế Leo V (813-820) bách hại các giáo sĩ, các tu sĩ và những người chống lại ông. Có nhiều người bị xử tử hoặc bị chết rũ tù. Cuộc bách hại này tiếp tục cho tới triều đại Hoàng đế Michael II (820-829), kéo dài tới triều đại Hoàng đế Theophilus (829-842). Rất nhiều người bị giết trong thời hoàng đế này. Cuộc bách hại chỉ chấm dứt khi ông ta chết vào năm 842.
THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
Giáo hội trải qua biết bao cuộc bách hại, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, từ đồng bằng tới cao nguyên,… Trong thiên niên kỷ thứ nhì, Giáo hội vẫn tiếp tục bị bách hại chỉ vì thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng, nhất là ở Nhật và Trung Hoa. Giáo hội cũng phải đối mặt với những cuộc tấn công của chính con cái của mình, lên đết tột độ trong những cuộc chiến tranh của việc cải cách.
TẠI BA LAN
Trong thế kỷ vừa qua, Ba Lan đã chịu những gì có thể gọi là sự bách hại dữ dội. Tuy nhiên, Công giáo vẫn tiếp tục là tôn giáo ổn định tại đất nước này cho tới khi Hoàng đế Catherine II (1762-96) của Nga can thiệp. Bằng các mưu đồ chính trị và công khai đối nghịch, trước tiên ông ổn định quyền bá chủ chính trị tại đất nước này, sau đó dùng chính sách đe dọa và áp bức, đặc biệt là ra lệnh bách hại Công giáo, dã man nhất là năm 1863, cấu kết với các chính phủ Pháp, Áo và Anh. Sau khi ông chết, Công giáo thoát cơn bách hại, và năm 1905, Hoàng đế Nicholas II cho phép hoàn toàn tự do tôn giáo.
Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện đại, có dạng bách hại mới được thêm vào cách đối lập với Giáo hội. Thi thoảng lại có bách hại, như vết thương bất ngờ sưng tấy lên, do chính quyền âm mưu với chủ nghĩa vô thần. Chẳng hạn những đợt quyấy nhiễu của Charleston và Philadelphia trong những năm 1834-1844, chủ trương “No Popery” (không giáo hoàng) ở Anh và Hà Lan trong những năm 1850-1853.
CHỦ NGHĨA TỰ DO
Có cách đối lập mới mà người ta gọi là “chủ nghĩa tự do” (Liberalism) và “tự do tư tưởng” (Free Thought), sức ảnh hưởng của nó được nhận biết ở các quốc gia Công giáo và Tin Lành. Nguồn gốc của nó xuất phát từ triết lý vô tín (infidel philosophy) của thế kỷ XVIII. Cuối thế kỷ XVIII, nó phát triển mạnh đến nỗi có thể là mối đe dọa đối với Giáo hội bằng bạo lực vũ trang. Tại Pháp, 600 linh mục bị người Gio-đan sát hại bằng cách chém đầu vào năm 1791, sau đó là 300 giáo sĩ khác bị giết vào năm 1792 – trong đó có một tổng giám mục và hai giám mục, ngay tại TP Paris. Triều đại Khủng bố hoành hành vào năm 1795. Nhưng “ngọn lửa đức tin” vẫn không thể bị dập tắt bởi các cuộc bách hại, dù có ác liệt hoặc tán nhẫn tới mức nào.
Tại Thụy Sĩ, những người Công giáo bị Đảng Tự Do tấn công, không cho tự do tôn giáo. “Liên Đoàn Tách Rời” (Sonderbund) của họ đã chiến thắng vào năm 1843, và mặc dù lực lượng Diet thất bại vào năm 1847, kết quả là an toàn tự do tôn giáo toàn quốc Thụy Sĩ. Từ đó, sự phấn kích có được nhờ sắc lênh về Ơn Bất Khả Ngộ của Giáo hoàng (Papal Infallibility), người Công giáo đủ mạnh để duy trì và tái củng cố vị thế tại đất nước này.
Tại các quốc gia khác, chủ nghĩa tự do không là vấn đề trong các cuộc chiến tranh chống lại Giáo hội, mặc dù những người bảo vệ Giáo hội thường xuyên bị coi là chống đối cách mạng, muốn lật đổ chính thể hoặc nhà nước. Lịch sử thế kỷ XIX cho thấy luôn có sự chống đối Giáo hội. Sức ảnh hưởng của Giáo hội bị thu hẹp bởi hiến pháp đối lập, các dòng tu bị làm khó, bị ngăn cản, hoặc bị cưỡng chiếm, kể cả các trường học và các bệnh viện của các dòng tu. Đó là cách bách hại tân kỳ của thời đại mới.
TRẦM THIÊN THU (Lược soạn từ NewAdvent.org và một số website khác)
CHÚ THÍCH:
(1) Albigensianism: Phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là tà thuyết thời Tòa án Dị giáo (Inquisition, syn: Catharism).
(2) Donitism: Giáo phái ở Bắc Phi năm 311 cho rằng tính thánh thiêng là chủ yếu đối với việc cử hành các bí tích và quản lý Giáo hội, chỉ có những người vô tội mới thuộc về Giáo hội hoặc có thể cử các bí tích. Phong trào ly giáo xảy ra ở Bắc Phi hồi thế kỷ IV, nó gợi lên tranh luận về tình trạng của những người lãnh đạo Giáo hội hợp tác với các viên chức La Mã trong bách hại Kitô giáo. Người khởi xướng phong trào này là Donatus, mất khoảng năm 355, từ chối tính hiệu quả của việc dâng lễ, cho rằng các Kitô hữu sa ngã thì không còn sống trong tình trạng ân sủng nên không có quyền dâng lễ.
Cuộc chiến chống tà thuyết Donatism lên tới đỉnh cao vào năm 311, khi Caecilian được tấn phong giám mục GP Carthage bởi một giám mục bất hợp thức. Constantine ủng hộ Caecilian, thúc giục những người theo tà thuyết Donatism ly khai với Công giáo La Mã năm 312. Tà thuyết này vẫn hiện hữu ở Bắc Phi tới khi xuất hiện Hồi giáo hồi thế kỷ VII [chú thích của người dịch].
(3) Arianism: Tà thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah’s Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể – tức là Một Chúa Ba Ngôi.
NGUỒN THAM KHẢO:
GENERAL: SYDNEY SMITH, The Pope and the Spanish Inquisition in The Month, LXXIV (1802), 375-99; cf. Dublin Review, LXI (1867), 177-78; KOHLER, Reform und Ketzerprocess (Tübingen, 1901); CAMUT, La Tolérance protestante (Paris, 1903); RUSSELL, Maryland; The Land of Sanctuary (Baltimore, 1907); PAULUS, Zu Luthers These über die Ketzerverbrennung in Hist. Polit. Blätter, CXL (1908), 357-67; MOULARD, Le Catholique et le pouvoir coercitif de l’Église in Revue pratique de l’Apologétique, VI (1908), 721-36; KEATING, Intolerance, Persecution, and Proselytism in The Month, CXIII (1909), 512-22; DE CAUZOUS, Histoire de l’Inquisition en France, I (Paris, 1909).
ROMAN MARTYRS: An exhaustive and reliable work is Allard, “Les Persécutions” (5 vols., Paris, 1885); also his “Ten Lectures on the Martyrs” (New York, 1907); and for an exhaustive literature see Healy, “The Valerian Persecution” (Boston).
JULIAN THE APOSTATE: SOZOMEN, Church History V.11; SOCRATES, Church History III.15; AMMIANUS MARCELLINUS, XXI-XXV; TILLEMONT, Mémoires, VII, 322-43; 717-45; LECLERCQ, Les Martyrs, III (Paris, 1904); ALLARD, Le Christianisme et l’empire romain de Néron à Théodore (Paris, 1897), 224-31; IDEM, Julien l’Apostat, III, 52-102; 152-158 (Paris, 1903); DUCHESNE, Histoire ancienne de l’Église, II (Paris, 1907), 328-35.
PERSIA: SOZOMEN, op. cit., 9-14; Acta Sanctorum Martyrum, ed. ASSEMANI, I (Rome, 1748), Syriac text with Lat. tr.; Acta Martyrum et Sanctorum, II, III, IV, ed. BEDJAN (Leipzig, 1890-95), Syriac text (for discussion of these two authorities See DUVAL, Littérature syriaque (Paris, 1899), 130-43). A list of martyrs who suffered under Sapor II was first published by WRIGHT and reproduced in the Martyrologium Hieronymianum by DE ROSSI AND DUCHESNE in Acta SS., Nov., II, part I, lxiii (Brussels, 1894); HOFFMANN, Auszüge aus syrischen Akten persischer Martyrer, text, tr., and notes (Leipzig. 1886); LECLERCQ, op. cit., III; DUVAL, Littérature syriaque (Paris, 1897), 129-47; LABOURT, Le Christianisme dans l’empire perse(Paris, 1904); DUCHESNE, op. cit. (Paris, 1910), 553-64.
GOTHS: KAUFFMAN, Aus der Schule des Wulfila: Auxentii Dorostorensis Epistola de fide, vita et obitu Wulfila (Strasburg, 1899). AUXENTIUS’S account is also found in WALTZ, Ueber das leben und die lehre des Ulfila (Hanover, 1840); HODGKIN,Italy and her Invaders, I (Oxford, 1892). 80-93; DUCHESNE, op. cit., II (Paris, 1908); SCOTT, Ulfilas, Apostle of the Goths(Cambridge, 1885). For general account of Goths and Catholicism, See UHLHORN, Kampfe und Siege des Christentums in der germanischen Welt (Stuttgart, 1898).
FOR VISIGOTHS: SOCRATES, op. cit., IV, 33; Contemporary letter on St. Sabas, Acta SS., 12 April; see also later document onSt. Nicetas, ibid., 15 Sept., and HODGKIN, op. cit., I, 1, 175; DAHN, Urgeschichte der germanischen und romanischen Volker,I (Berlin, 1881), 426 sq., for Athanaric’s persecution; SIDONIUS APOLLINARIS, ep. vii, 6 in Mon. Germ. Hist.: Auct. Antiq.,VIII, HODGKIN, op. cit., II, 484, for Euric; JOHN OF BICLARO in Mon. Germ, Hist,: Auct. Antiq., XI, 211; GORRES, Kirche und Staat im Westgotenreich von Eurich bis Leovigild in Theol, Stud. u. Krit. (Gotha, 1893), 708-34; GAMS, Kirchengeschichte Spaniens, I, II (Augsburg, 1862), 4; LECLERCQ, L’Espagne chrétienne (Paris, 1906); ASCHBACH, Gesch. der Westgoten(Frankfort, 1827).
FOR OSTROGOTHS: Vita S. Severini in Mon. Germ, Hist.: Auct. Antiq., 1; PAPENCORDT, Gesch, der stadt Rom. (Paderborn, 1857), 62 sq.; PFEILSCHRIFTER, Der Ostrogotenkönig Theodoric der Grosse und die Katholische Kirche inKirchengeschichtliche Studien, III (Münster, 1896), 1, 2; GRISAR, Geschichte Roms und der Papste im Mittelalter, I (Freiburg im Br., 1901), 86, 481.
AMONG THE LOMBARDS: ST. GREGORY THE GREAT, Dialogues, III, 27, 28, 37, 39; iv, 21-23, see HODGKIN, op. cit., VI, 97, 104; PAUL THE DEACON, Historia Langobardorum, I-IV in Mon. Germ. Hist.: Script. Langob. et Ital. (Hanover, 1878), 45 Sq., see HODGKIN, op. cit., V. 68-80; DAHN, op. cit.; GRISAR, op. cit.
AMONG THE VANDALS: IDATIUS in Mon. Germ, Hist.: Auct. Antiq., XI, 13-36; MIGNE, P.L., LI; VICTOR VITENSIS, Historia persecutionis Africanæ provinciæ, ed, HALM in Mon. Germ. Hist., loc. cit., III; PETSCHENIG, Corpus Script. eccles. lat., VII (Vienna, 1881); MIGNE, P.L., LVII; PROSPER, Chronicon in Mon. Germ. Hist., loc. cit. IX; MIGNE, P.L., LI; RUINART, Hist. persec. Vand. in P.L., LVIII; PAPENCORDT, Gesch. der Vandalischen Herrschaft in Afrika (Berlin, 1837); DAHN, op. cit.;HODGKIN, op. cit., II, 229-30, 269-82; LECLERCQ, L’Afrique chrétienne, II (Paris, 1904); IDEM, Les Martyrs, III (Paris, 1904); DUCHESNE, op. cit., III, 626-45.
IN ARABIA: FELL, Die Christenverfolgung in Südarabien in Zeitsch. der deutschen morgent. Gesellechaft (1881), XXV. (See ARABIA.)
UNDER THE MOHAMMEDANS: PARGOIRE, L’Église byzantine, (Paris, 1905), 153-6, 275-9; LECLERCQ, L’Afrique chrétienne, II (Paris, 1904); IDEM, Les Martyrs, IV (Paris, 1905). For Spain: See EULOGIUS and Bibliography; Vita S. Eulogii, by ALVARUS inP.L., CXV, 705 sq.; EULOGIUS, Memoriale Sanctorum seu libri III de martyribus cordubensibus; MIGNE, P.L., CXV, 731; Dozy,Histoire des Mussulmans d’Espagne, II (Leyden, 1861); GAMS, Kirchengesch. Spaniens, II (Ratisbon, 1864); HAINES,Christianity and Islam in Spain, 756-1031 (London, 1889); LECLERCQ, L’Espagne chrétienne (Paris, 1906).
ICONOCLASTS: Theodori Studitæ Epistola, P.G., XCIX; TOUGARD, La Persécution iconoclaste d’après la correspondance de S. Théodore Studite in Revue des Questions historiques, L (1891), 80, 118; HERGENROTHER, Photius, I, 226 sqq. (Ratisbon, 1867); LOMBARD, Constantin V, Empereur des Romains (Paris, 1902); PARGOIRE, L’Église byzantine de 527-847 (Paris, 1905), contains abundant references to lives and acts of martyrs.
MODERN PERIOD: BRÜCK-KISSLING, Gesch. der kath. Kirche im neunzehnten Jahrh. (5 vols., Mainz and Münster, 1908); MACCAFFREY, History of the Catholic Church in the Nineteenth Century (2 vols., Dublin, 1909); GOYAU, L’Allemagne religieuse(3 vols., Paris, 1906).