I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 4,5-42
(5) Vậy Người đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. (6) Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa. (7) Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống !”. (8) Quả thế, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. (9) Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao ?” Quả thế, người Do thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. (10) Đức Giê-su trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị Nước Hằng Sống”. (11) Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra Nước Hằng Sống ? (12) Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Gia-cóp chúng tôi, là người đã cho chúng tôi giếng này ? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy”. (13) Đức Giê-su trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. (14) Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. (15) Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. (16) Người bảo chị ấy: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây”. (17) Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng”. Đức Giê-su bảo: “Chị nói: Tôi không có chồng là phải, (18) vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng”. (19) Người phụ nữ nói với Người: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một Ngôn sứ… (20) Cha ông chúng tôi đã phờ phượng Thiên Chúa trên núi này. Còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. (21) Đức Giê-su phán: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. (22) Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do thái. (23) Nhưng giờ đã đến và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. (24) Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật”. (25) Người phụ nữ thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô sẽ đến. Khi Người đến, người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. (26) Đức Giê-su nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”. (27) Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: “Thầy cần gì vậy ?” Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy ?”.(28) Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: (29) “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao ?” (30) Họ ra khỏi thành và đến gặp Người. (31) Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa”. (32) Người nói với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”. (33) Các môn đệ hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn cho Thầy rồi chăng ?”. (34) Đức Giê-su nói với các ông: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. (35) Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt ? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem: đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái !”.(36) Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời. Và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. (37) Thật vậy, câu tục ngữ “Kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng ! (38) Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả. Còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ”. (39) Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng: “Ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm”. (40) Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. (41) Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. (42) Họ bảo người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian”.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc đối thoại của Đức Giê-su với một phụ nữ Sa-ma-ri. Người đã từng bước đưa chị ta đón nhận mặc khải quan trọng: Người chính là Đấng Thiên Sai, ban Nước Hằng Sống cho những ai tin vào Người và họ sẽ biến thành mạch nước giúp người khác đón nhận sự sống đời đời.
3. CHÚ THÍCH:
– C 5-9: + Đến một thành xứ Sa-ma-ri:Từ Giê-ru-sa-lem về Ga-li-lê ngang qua xứ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã tới giếng Gia-cóp gần thành Sy-kha (hay Si-khem) tại đất Ca-na-an (x. St 33,18; 48,22). Đây là đất mà tổ phụ Gia-cóp đã cho Giu-se và con cháu làm gia nghiệp (x. Gs 24,32). + Khoảng giờ thứ sáu: Tức khoảng mười hai giờ trưa. Người Do thái tính thời gian như sau: ban ngày có 12 giờ và ban đêm có 4 canh giờ. Ngày bắt đầu từ giờ Thứ Nhất (6g sáng) lúc mặt trời mọc, và kết thúc vào giờ Thứ Mười Hai (18g00) lúc mặt trời lặn. + “Chị cho tôi xin chút nước uống !”: Đức Giê-su chủ động xin nước uống để có cơ hội bắt chuyện, giúp người phụ nữ dần dần nhận ra Người là Đấng ban Nước Hằng Sống, đem lại ơn cứu độ cho loài người. + “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao ?”: Từ sau khi đi lưu đày trở về, dân Do thái xây dựng lại Đền Thờ mà không cho người Sa-ma-ri cộng tác, nên họ đã xúi vua Ba-tư cản trở công cuộc tái thiết này (x. Er 4,1-16). Từ đó hai dòng giống Do thái và Sa-ma-ri tuy cùng một tổ tiên, sống sát bên nhau, nhưng lại có ác cảm và không giao tiếp với nhau. Ở đây, người phụ nữ này nhận ra Đức Giê-su là người Do thái qua giọng nói và cách ăn mặc nên đã tỏ ra ngạc nhiên và từ chối như vậy.
– C 10-15: + “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị Nước Hằng Sống”…: Nhân dịp này, Đức Giê-su cho người phụ nữ kia biết Người là Đấng ban Nước Hằng Sống. + “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra Nước Hằng Sống ?…: Người phụ nữ này chỉ hiểu lời nói của Đức Giê-su theo nghĩa thông thường là nước giếng tự nhiên, đang khi Đức Giê-su lại có ý nói đến Nước Hằng Sống là Ơn Cứu Độ. + “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”: Đức Giê-su so sánh nước giếng tự nhiên chỉ làm đã khát nhất thời, với Nước Hằng Sống mang lại sự sống đời đời mà Người sẽ ban, để khơi dậy sự khao khát nơi người này. + “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”: Đức Giê-su dẫn dắt người phụ nữ từ thái độ thù nghịch đến chỗ thân thiện. Từ vai một người xin nước đến chỗ là Đấng ban Nước Hằng Sống và chị ta đã xin Người ban thứ Nước ấy.
– C 16-22: + “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây”: Đức Giê-su tỏ ra là người lịch sự khi muốn nói chuyện với người phụ nữ trước mặt chồng chị ta, đồng thời Người cũng muốn chị ta ý thức về thân phận tội nhân của mình. + “Chị nói: Tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng”: Đức Giê-su cho người phụ nữ ý thức tình trạng hôn nhân bất hợp pháp của mình. Một số nhà chú giải còn nhìn thấy 5 đời chồng là hình ảnh tượng trưng dân Sa-ma-ri vừa kính sợ Đức Chúa, lại vừa phụng thờ 5 vị thần khác (x. 2V 17,29-34.41). + Thưa ông, tôi thấy ông thật là một Ngôn Sứ: Người phụ nữ sửng sốt khi thấy Đức Giê-su thấu suốt đời tư của mình, và tôn xưng Người là một Ngôn sứ. Đồng thời, chị ta xin Đức Giê-su chỉ dẫn phải tôn thờ Thiên Chúa trên núi Ga-ra-dim như người Sa-ma-ri, hay thờ Chúa tại Đền Thánh Giê-ru-sa-lem như người Do Thái ? + Đã đến giờ: Đức Giê-su dạy chị phụ nữ với tư cách vị Ngôn sứ: Đã đền giờ Người xuất hiện để thực hiện chương trình cứu độ. Người cho biết: việc thờ phượng tại núi này hay tại Giê-ru-sa-lem chỉ là hình bóng và đã qua rồi. Bây giờ là thời Thiên Sai, phải chầm dứt việc thờ phượng cũ để bắt đầu cách thờ phượng mới nơi bản thân Người. + Thờ Đấng mà các người không biết: Người Sa-ma-ri chỉ công nhận bộ sách Ngũ Kinh và không biết đến các sách khác, nhất là các Ngôn Sứ mặc khải về Thiên Chúa. + Còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết: Người Do thái tuân giữ toàn bộ các sách Thánh Kinh. Sau này, Tông đồ Phao-lô cũng nhấn mạnh về đặc ân đó của người Do thái (x. Rm 9,4).
– C 23-29: + Thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí: là tôn thờ Thiên Chúa dưới sự soi sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. + Trong Sự Thật: Thờ Thiên Chúa trong Đức Giê-su, Đấng là “đường, sự thật và sự sống” (Ga 14,6). Tóm lại, từ nay Đức Giê-su trở nên Đền Thờ mới sẽ thay Đền Thờ cũ trên núi Ga-ra-dim hay tại Giê-ru-sa-lem. + Thiên Chúa là Thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật”: Đức Giê-su đã nêu ra một điều được cả người Do thái và người Sa-ma-ri chấp nhận là lời quả quyết: “Thiên Chúa là Thần Khí, và người ta phải thờ Người ở khắp mọi nơi, thờ chính Thiên Chúa chứ không phải thờ hình bóng của Người. Thiên Chúa là Đấng vô hình, nên Người đòi người ta phải thờ phượng Người trong tâm hồn. Một số người dựa vào câu này để từ chối thờ Chúa bằng những hình thức lễ nghi bên ngoài. Thực ra Đức Giê-su vẫn thường xuyên lên Đền thờ (x. Ga 2,13; 7,14; 11,55) và đến hội đường Do thái (x. Mt 1,21; Mt 13,54) để tham dự các nghi lễ thờ phượng Thiên Chúa. Người chỉ chống lại những nghi lễ vụ hình thức mà thôi (x. Mt 15,7-9; 21,12-13). + Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô sẽ đến: Dù chưa hiểu được ý nghĩa về lời giải thích trên đây, người đàn bà này cũng quan tâm đến tôn giáo. Bà hy vọng Đấng Ki-tô sẽ đến loan báo mọi sự. + Đấng ấy chính là tôi: Bình thường, Đức Giê-su không muốn tỏ ra là Đấng Thiên Sai vì sợ dân Do thái hiểu vai trò Thiên Sai theo nghĩa chính trị. Còn ở đây nói với người phụ nữ Sa-ma-ri, Người không sợ bị hiểu lầm nên đã tỏ mình chính là Đấng Thiên Sai. + Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ: Phong tục Do thái không cho phép đàn ông nói chuyện với phụ nữ nơi công cộng. Làm như vậy, Đức Giê-su đã bãi bỏ tục lệ này vì sứ mệnh rao giảng Tin Mừng quan trọng hơn thói tục của người đời. Người đến với tha nhân, bất kể họ là ai hay thuộc phái tính, dân tộc nào, để đem Tin Mừng cứu rỗi cho họ. + Đến mà xem: có một người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm: Thực ra Đức Giê-su mới chỉ nói về những người chồng của người phụ nữ này chứ chưa nói về tất cả những gì chị đã làm. Nhưng khi nói với dân chúng, chị ta đã phóng đại lên để cho người ta dễ tin theo mà thôi.
– C 30-38: + “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”: Đức Giê-su muốn dựa vào của ăn phần xác mà các môn đệ mời Người để nói về của ăn thiêng liêng mà các ông chưa biết. + Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy: Đức Giê-su coi việc làm theo thánh ý Chúa Cha chính là lương thực của Người. + Đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái !: Đức Giê-su dựa vào câu tục ngữ người nông dân hay nói: “Bốn tháng có qua, mùa gặt có tới”. Qua đó Người nói đến mùa gặt thiêng thiêng là cánh đồng truyền giáo đã chín vàng, vì dân Sa-ma-ri sắp kéo tới để gặp Người. Đây là hoa trái đầu mùa của mùa gặt Thiên Sai. + Đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! : Trong Cựu Ước, mùa gặt tượng trưng sự phán xét của Thiên Chúa, hoặc niềm vui ơn cứu độ (x. Is 9,2; Am 9,13, Tv 126,5). Trong Tân Ước, mùa gặt tượng trưng cho hoa quả của việc truyền giáo (x. Mt 9,37). Đức Giê-su gợi lên niềm vui và phần thưởng của thợ gặt là các tông đồ, khi các ông giúp nhiều người tin để được hưởng hạnh phúc Nước Trời. + Câu tục ngữ “Kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng !: Câu tục ngữ này được hiểu như sau: Người gieo chính là Đức Giê-su và hạt giống là Tin Mừng (x. Lc 8,11); Thợ gặt là các môn đệ. Mặc dù các ông chưa được sai đi, nhưng Đức Giê-su đã thấy trước viễn ảnh tốt đẹp là hoa quả do việc truyền giáo mang lại. Việc Người sắp chịu chết trên thập giá giống như hạt giống, phải chết đi mới sinh ra nhiều hoa trái (x. Ga 12,24). Công việc truyền giáo là một việc tập thể mỗi người một nhiệm vụ: “Người gieo kẻ gặt”. Do đó khi việc tông đồ mang lại nhiều kết quả thì đừng nghĩ rằng đó là thành quả do công sức của riêng mình.
– C 39-42: + Ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm: Lời chứng của người phụ nữ được coi là dấu chỉ, là giai đoạn đầu dẫn dân thành đến niềm tin vào Đức Giê-su. + Dân Sa-ma-ri xin người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa: Đức tin sẽ được tiếp tục triển nở nhờ lời giảng dạy của Đức Giê-su. + “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian”:Qua lời của dân thành Sa-ma-ri, chúng ta thấy đức tin trưởng thành không những dựa vào người khác như cha mẹ, vợ chồng, người thân hay theo số đông, mà do sự lắng nghe và thực hành lời Chúa.
3. CÂU HỎI:
1) Cách tính giờ của người Do thái thế nào ? 2) Đức Giê-su chủ động xin nước uống với người phụ nữ Sa-ma-ri nhằm mục đích gì ? 3) Nước Hằng Sống mà Đức Giê-su hứa ban là thứ nước gì ? 4) Lời Đức Giê-su dạy thờ Thiên Chúa vô hình trong Thần Khí và Sự Thật phải chăng là Người bãi bỏ tất cả các lễ nghi thờ phương bề ngoài ? 5) Câu chuyện người phụ nữ Sa-ma-ri hôm nay dạy ta bài học gì về sứ mệnh loan báo Tin Mừng ? 6) Câu nói của dân làng cho thấy hiệu quả của Lời Chúa tác động thế nào nơi những người tin?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4,13-14a).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC GIÊ-SU – “NƯỚC HẰNG SỐNG” MANG LẠI HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI:
Cách đây ít lâu, một số chị em người Bỉ khi suy niệm đoạn Tin mừng này, đã cùng nhau lập một tu hội tên là “Ô Vi” (Eau Vive) dịch là “Nước Hằng Sống”. Ngoài việc cầu nguyện trước Chúa Thánh Thần mỗi ngày, chị em còn mở quán ăn phục vụ khách. Trong quán, các chiêu đãi viên chính là các nữ tu. Châm ngôn của tu hội là “Phục vụ Chúa trong các thực khách”. Mỗi buổi tối vào giờ đóng cửa, chị em biến quán ăn trở thành nhà nguyện. Các thực khách được mời ở lại tham dự giờ chia sẻ Lời Chúa. Mọi người sẽ được nghe Lời Mặc Khải là Nước Hằng Sống như Đức Giê-su đã ban cho người phụ nữ Sa-ma-ri xưa.
2) SỨC MẠNH LÔI CUỐN CỦA LÒNG BÁC ÁI ĐÍCH THỰC:
Có một người đàn ông nọ mới xin theo đạo. Một hôm có người muốn thử đức tin của ông ta liền lên tiếng hỏi: “Ông theo đạo Công giáo, nhưng ông có biết Đức Giê-su là ai không?” Người tân tòng trả lời: “Dĩ nhiên là tôi biết chứ”. Người kia hỏi tiếp: “Thế Đức Giê-su sinh ra tại đâu ?” Người tân tòng im lặng không trả lời được. Người kia hỏi tiếp: “Đức Giê-su chết năm bao nhiêu tuổi ?” Một lần nữa, người tân tòng lại không thể trả lời. Người kia liền kết luận: “Ông chẳng hiểu biết gì về đạo. Vậy tại sao ông lại theo đạo ?” Bấy giờ người tân tòng mới nói: “Thú thật với ông: tôi biết rất ít về giáo lý. Nhưng điều tôi biết rất rõ là: Cách đây hai năm, do nợ ngân hàng không thanh toán được đúng hạn, nên gia đình tôi bị đuổi ra khỏi nhà phải lang thang nay đây mai đó. Trong thời gian ấy, tôi trở nên nghiện rượu và hay la mắng vợ con. Vợ tôi lúc nào cũng buồn sầu khóc lóc. Các con tôi thì luôn sợ phải gặp thấy bộ mặt ba của chúng. Nhưng sau đó một năm, tôi may mắn đã gặp được một linh mục tốt bụng. Ông đã tận tình giúp đỡ gia đình tôi vượt qua khó khăn: Ông giúp tôi có được việc làm ổn định, và giúp gia đình tôi trở nên con cái Chúa, còn giúp tôi sống tiết độ hơn. Hiện nay tôi đã lấy lại được căn nhà cũ. Vợ chồng tôi sống rất hòa hợp hạnh phúc. Các con tôi đều khỏe mạnh, học hành tiến bộ và ngoan ngoãn hiếu thảo. Tôi xác tín rằng: Chính Đức Giê-su đã biến đổi gia đình tôi từ khi tôi gặp được Người qua con người của một vị linh mục !”
Quả thật, đúng như lời Đức Giê-su đã phán trong Tin Mừng hôm nay: “Ai uống nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).
3) LÒNG MẾN CHÚA PHẢI THỂ HIỆN QUA SỰ YÊU NGƯỜI:
Vào một đêm trăng sáng, khi nhìn qua cửa sổ, vị tu sĩ già nhìn thấy một thiên thần đang ngồi trên một tảng đá trong khu vườn phía sau tu viện. Thiên thần cầm bút viết vào quyển sổ vàng để trước mặt. Lòng tràn ngập niềm vui, vị tu sĩ tiến lại gần thiên thần và lên tiếng hỏi: “Ngài đang viết gì vào sổ vàng thế ?” Thiên thần trả lời: “Ta đang ghi tên những tín hữu đủ điều kiện để được lên thiên đàng”. Vừa hồi hộp và lo lắng, vị tu sĩ liền hỏi thiên thần xem trong sổ vàng có ghi tên của mình chưa? Thiên thần liền lần giở từng trang sách ra dò, nhưng tìm mãi mà vẫn không thấy tên của vị tu sĩ. Thiên thần cho biết sở dĩ ông chưa được ghi tên vào sổ vàng, vì ông còn thiếu lòng mến Chúa. Bấy giờ vị tu sĩ lên tiếng hỏi thiên thần: “Tuy tôi chưa mến Chúa đủ, nhưng nếu tôi có tình thương tha nhân thì tôi có được ghi tên trong sổ vàng không?”. Nghe vậy, thiên thần đã đồng ý. Thế là từ hôm đó, vị tu sĩ đã nhiệt tình thực hành bác ái bằng việc hăng say phục vụ những người bệnh tật, đui mù và nghèo khổ bất hạnh.
Sau khi vị tu sĩ qua đời, anh em trong dòng đã tìm thấy cuốn nhật ký của vị tu sĩ. Tronh đó, ông đã viết ở trang đầu tiên như sau: ”Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó, tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy” (1 Ga 4,20). Tiếp theo là lời tâm tình của vị tu sĩ: ”Lúc đầu tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng tôi chẳng thể gặp được vì Ngài là Đấng thiêng liêng; tiếp đến, tôi đi tìm linh hồn tôi, nhưng tôi không tìm được, vì linh hồn có đặc tính vô hình; Rồi sau cùng, khi tôi quyết tâm tìm kiếm tha nhân và yêu thương họ, bằng việc chia sẻ và âm thầm phục vụ họ như phục vụ Chúa, thì tôi đã gặp cả Thiên Chúa và linh hồn mình” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
4) LÒNG THAM SẼ DẪN NGƯỜI TA LẠC XA CHÚA LÀ HẠNH PHÚC ĐÍCH THỰC:
Có một anh thợ đào vàng mới chết và đến cổng Thiên Đàng xin thánh Phê-rô mở cửa cho vào. Thánh nhân hỏi: “Ở trần gian anh làm nghề gì?” Anh thưa: “Con làm thợ đào vàng”.
Thánh Phê-rô liền nói: “Trên thiên đàng hiện đã có quá nhiều thợ đào vàng rồi”. Nhưng anh ta vẫn nài nỉ: “Xin ngài cứ cho con vô, để con sẽ cầm đầu bọn nó, không để chúng do lòng tham mà tranh giành nhau làm mất an toàn trật tự trên thiên đàng”.
Sau đó anh chàng đã được thánh Phê-rô cho vào thiên đàng. Trước tiên anh ta đi tham quan một vòng quanh thiên đàng và đã gặp nhiều bạn bè đào vàng trước kia. Bấy giờ anh liền rỉ tai một người bạn và nói như sau: “Tớ nghe đồn là dưới hoả ngục có một mỏ vàng cực lớn. Chú mày hãy mau đi rủ bạn bè xuống dưới đó mà đào”. Thế là chỉ sau một thời gian ngắn, các tay thợ đào vàng liền bỏ thiên đàng, mang theo cuốc xẻng nhảy xuống hoả ngục đi tìm vàng.
Còn lại một mình, anh thợ đào vàng đứng ngồi không yên. Anh liền xin thánh Phêrô cho xuống hoả ngục để xem tình hình ra sao. Biết đâu ở đó đã thực sự có mỏ vàng thì sao? Vì anh thấy bọn bạn cũ của anh đã đi lâu rồi mà vẫn không thấy quay lại” Thánh Phê-rô liền khuyên anh: “Con đừng ảo tưởng! Dưới hỏa ngục làm sao có mỏ vàng được, trái lại, chỉ có đau khổ nước mắt và thói ganh ghét xấu xa mà thôi. Nhưng anh chàng kia không nghe lời khuyên, cứ quyết định leo rào ra ngoài để tìm đường đi xuống hỏa ngục.
Than ôi! Thế là chính vì lòng tham không đáy mà cả bọn thợ đào vàng đều bị mất hạnh phúc thiên đàng. Ngày nay trên trần gian, do lòng tham không đáy, mà nhiều người cũng hứa sẽ sẵn sàng hy sinh hạnh phúc riêng mình để chạy theo lòng tham vàng bạc vật chất, nhắm mắt phạm các tội ác nghiêm trọng như: cướp của, giết người… để rồi phải vào tù chịu hình phạt đau khổ ở đời này và còn chịu bất hạnh trong hỏa ngục đời sau.
3. SUY NIỆM:
1) NHU CẦU NƯỚC SẠCH CỦA NHÂN LOẠI:
Ngày 22 tháng 3 hàng năm đã được Liên Hiệp Quốc chọn làm Ngày Nước Thế Giới – ngày để con người nhìn lại tầm quan trọng của tài nguyên quý giá bậc nhất trên Trái đất. Nước là tài nguyên chiếm 3/4 diện tích Địa cầu nhưng chỉ có khoảng 2,5% trong tổng số đó là nước có thể sử dụng được. Tổ chức Y tế Thế giới luôn cảnh báo về tình trạng thiếu nước sạch trên toàn thế giới. Hiện nay mỗi năm có khoảng 1,2 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết vì thiếu nước sạch.
Riêng tại Việt Nam, nhiều người vẫn chưa được sử dụng nước sạch, kể cả tại những thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Hội. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu nước là do việc khai thác bừa bãi sông ngòi, sử dụng nước sạch cách phí phạm. Nguyên nhân trầm trọng hơn, đó là tình trạng ô nhiễm môi trường do con người gây ra. Các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất và các gia đình đã xả thẳng ra môi trường chất thải, hóa chất chưa được xử lý, khiến cho nguồn nước ngầm bị nhiễm độc do hóa chất và các kim loại nguy hiểm. Theo Bộ Y tế, tại Việt Nam, hàng năm có tới 10 ngàn người chết vì các chứng bệnh liên quan đến sử dụng nước ô nhiễm. Một trong các bệnh dễ thấy đó là ung thư và các bệnh liên quan đến hệ tiêu hóa như đường ruột.
Ngoài cơn khát về nguồn nước cho thân xác, con người còn có sự khao khát về tâm linh cần được thỏa mãn. Đó là khát vọng hướng tới vô biên, mong tìm hạnh phúc… như lời Sách Thánh: “Như nai rừng mong mỏi, tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong, tìm đến Ngài, lạy Chúa” (Tv 42). Thánh Au-gút-ti-nô cũng mang tâm trạng khát mong đi tìm thỏa mãn các đam mê lạc thú nơi loài thụ tạo nhưng đã không được như ý. Cuối cùng Au-gút-ti-nô đãtìm thấy hạnh phúc nơi một mình Thiên Chúa như ngài đã cầu nguyện: ”Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, linh hồn con vẫn còn khắc khỏai mãi cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”. Và tác giả Sách Thánh Vịnh cũng đống quan điểm khi viết: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, Hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2).
2) ĐỨC GIÊ-SU LÀ “NƯỚC HẰNG SỐNG” THỎA MÃN CƠN KHÁT CỦA NHÂN LOẠI:
Tin Mừng CN hôm nay tường thuật cuộc đối thoại tại bờ giếng Gia-cóp, giữa Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri tượng trưng cho dân ngoại. Qua đó, Người đã từng bước mặc khải cho chị ta về ơn cứu độ. Đức Giê-su đã chủ động xin chị ta nước uống vật chất, để sau đó hứa ban cho chị “Nước Hằng Sống”. Tiến trình đức tin nơi chị phụ nữ Sa-ma-ri trong Tin Mừng như sau:
– Đầu tiên Đức Giê-su đi bước trước mở lời: “Cho tôi chút nước uống” (c. 7). Xin nước không phải thực sự cần nước uống, nhưng nhằm bắc một nhịp cầu vượt qua hố ngăn cách giữa hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri. Tuy cùng là con cháu của tổ phụ Gia-cóp, nhưng do hoàn cảnh lịch sử đã phân thành hai dân tộc nghi kỵ nhau và không giao tiếp với nhau, như lời chị phụ nữ Sa-ma-ri nói với Đức Giê-su: “Ông là người Do thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri cho ông nước uống hay sao ?” (c. 9). Sau đó, từ nước giếng vật chất, Đức Giê-su đã từng bước mặc khải cho chị ta về “Nước Hằng Sống” (c. 10).
– Chính do hiểu lầm hiềm khích mà hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri đã chia rẽ nhau về đức tin: Người Do thái chỉ thờ Đức Chúa tại Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, đang khi người Sa-ma-ri lại muốn phải thờ Đức Chúa tại núi Ga-ri-dim! Còn theo Đức Giê-su: Người ta không được giới hạn Thiên Chúa tại đền thờ vật chất tại Giê-ru-sa-lem hay trên núi Ga-ri-dim. Thiên Chúa là Đấng vô hình như “Gió” và “Thần Khí”, sự thờ phượng đúng đắn nhất là phải thờ Thiên Chúa trong “Thần Khí” và “Sự Thật” (c. 20-24).
3) PHẢI THỜ CHÚA TRONG THẦN KHÍ VÀ SỰ THẬT:
Đức Giê-su nói về sự thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa: “Nhưng giờ đã đến, và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4, 23).
– Phải thờ Thiên Chúa trong Thần Khí:
Ðức Giê-su nói: “Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật”. Ngày nay nhiều người cũng đồng quan điểm khi chủ trương: “Đạo tại tâm”. Thánh Phao-lô cũng nói: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Ðền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao” (1 Cr 3,17). Mỗi người tín hữu chúng ta hôm nay cũng cần xin ơn Chúa Thánh Thần giúp ta thực thi đức tin bằng đức cậy tức là cầu nguyện dâng lễ; và bằng đức mến là phục vụ tha nhân.
– Phải thờ Thiên Chúa trong Sự Thật:
Sự thật là chính Đức Giê-su như Người đã tuyên bố: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ma quỷ là cha của sự dối trá và các môn đệ của Đức Giê-su phải tránh dối trá như các đầu mục dân Do thái đã bị Đức Giê-su quở trách: “Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44). Còn Thiên Chúa của chúng ta thờ là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, những kẻ gian dối, sẽ không thể gặp được Ngài là Sự Thật. Do đó mỗi người chúng ta cần có một lương tâm ngay thẳng: “có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5,36), không quanh co, lươn lẹo, gian dối, nói một đàng làm một nẻo… thì mới có thể gặp gỡ Ngài.
4) TRỞ THÀNH MẠCH “NƯỚC HẰNG SỐNG” VỌT ĐẾN HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI:
Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su nói về sứ vụ của người tín hữu như sau: “Ai uống nước này, sẽ lại khát.Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”? (Ga 4,13-14).
Thực vậy, tông đồ Phi-lip-phê sau khi đã gặp và tin Đức Giê-su, liền đi tìm bạn mình là Na-tha-na-en để chia sẻ niềm tin (x. Ga 1,45); Ma-ri-a Mađalêna sau khi gặp Chúa Phục Sinh cũng vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo Tin vui đã gặp Chúa Phục Sinh (x. Ga 20,18); Người phụ nữ Samaria trong Tin Mừng hôm nay sau khi gặp gỡ và tin Đức Giê-su, cũng chạy vội về làng loan báo cho mọi người: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” (Ga 4,29). Mọi người nghe lời chị kéo nhau đến gặp Đức Giê-su và mời Người vào ở trọ trong làng của họ. Sau khi nghe Người giảng và đã tin Người là Đấng Thiên Sai, họ đã khẳng định niềm tin trưởng thành với chị phụ nữ như sau: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4,42).
Trong những ngày Mùa Chay này, mỗi người chúng ta đã gặp gỡ Đức Giê-su bằng việc nghe lời Chúa trong thánh lễ và các buổi tĩnh tâm… Chúng ta một khi gặp được Đức Giê-su là nguồn suối Nước Hằng Sống,và được thỏa mãn cơn khát của tâm hồn, chúng ta cần làm gì để giúp bạn bè và người thân gặp gỡ tin yêu Chúa để cùng chia sẻ niềm vui cứu độ?
4. THẢO LUẬN:
1) Chúng ta thường mong ước những điều gì và cảm thấy thế nào khi chiếm hữu được chúng ? 2) Bạn có cảm nghĩ gì về Lời Chúa hứa sẽ ban Nước Hằng Sống cho những ai tin và uống nước ân sủng của Người ?
5. NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy biến đổi chúng con trong Mùa Chay này. Xin cho chúng con được gặp Chúa trong thánh lễ, những buổi tĩnh tâm, qua những người nghèo khó cần được sự chăm sóc giúp đỡ… Nhờ đó, chúng con biết rõ con người thật của mình hơn. Xin cho chúng con được uống Nước Hằng Sống là những Lời Chúa phán. Nhờ đó, cuộc đời của chúng con sẽ nên vui tươi hạnh phúc hơn. Xin cho chúng con sẵn sàng bỏ đi cái nhìn hẹp hòi thành kiến về tha nhân, để nên giống Chúa: Quảng đại tha thứ, quên mình phục vụ và luôn đi bước trước đến với tha nhân, như Chúa đã mở lời nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri trong Tin Mừng hôm nay.
– LẠY CHÚA. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: chúng con được Thiên Chúa tạo dựng để qui hướng về Người, nên chúng con vẫn còn khắc khoải mãi, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa. Xin Chúa giúp chúng con năng chạy đến với Chúa và vâng nghe Lời Chúa dạy như Mẹ Ma-ri-a đã nói với các người giúp việc tại tiệc cưới Cana: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5b). Nhờ đó chúng con sẽ trở thành mạch nước đem Chúa đến với mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH –HHTM