Có thể nói đây là ”ơn gọi muộn” của một người đã trải qua nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp khác nhau, kể cả trong quân đội với chức hạ sĩ lê-dương. Xin nhường lời cho thầy phó tế gợi lại con đường đưa đến thiên chức Linh Mục.
Tôi chào đời năm 1971 và lớn lên tại thành phố Grenoble nhưng rời quê sinh năm 18 tuổi. Chúa Quan Phòng đưa tôi đến Alpes-Maritimes và sau cùng dừng lại nơi thành phố thuộc giáo phận Nice.
Tôi vào đời thật sớm vì nghỉ học năm 16 tuổi. Tôi khởi sự hành nghề nơi tiệm bánh ngọt trong vòng một năm rồi ngưng vì nơi đây phải làm việc quá nhiều đặc biệt vào những ngày cuối tuần và lễ trọng. Sau đó thì tôi xoay đủ thứ nghề: từ thợ làm đồ thạch cao đến người hầu bàn rồi làm đầu bếp. Cho đến năm 22 tuổi thì tôi đi vào binh nghiệp.
Thật ra lúc ban đầu tôi muốn trốn lính. Nhưng rồi tôi thi hành nghĩa vụ quân sự và sau một năm rưỡi thì tôi ghi danh gia nhập đội binh lê-dương và ở lại đây trong vòng 10 năm. Thời gian này tôi làm quen và khám phá ra nhiều hạng người khác nhau, phần đông đến từ các nước Đông Âu. Họ để lại nơi tôi một ảnh hưởng rất lớn vì họ đã trải qua những tháng ngày khó khăn. Họ có cách thức suy tư khác. Và nhất là tình huynh đệ chi binh thật bao la cao cả trong quân đội. Người ta thường nói rằng làm lính một ngày là làm lính mãi mãi. Đúng thật như vậy. Ngay cả khi bạn rời quân ngũ, nhưng một khi đã khoác áo lính, bạn sẽ là lính suốt đời.
Nhìn lại quãng đời trải qua tôi thấy mình thay đổi đủ thứ nghề, y như thể tôi tìm kiếm một cái gì đó. Và ơn hoán cải đã đến với tôi trong quân đội. Thật vậy. Tôi bị thương nơi khuỷu tay nên được chuyển vào làm việc nơi quán bar giải khát.
Một người bạn cho tôi mượn một cuốn sách để đọc. Tôi thấy sách hay nên muốn mua một cuốn khác để đọc hầu tìm ra niềm vui sống và tìm thấy ý nghĩa cuộc đời, xét vì tôi đang trải qua thời kỳ khó khăn. Tôi tìm được cuốn ”Niềm Vui Trí Thức” (Le gai savoir) của triết gia người Đức Friedrich Nietzsche (1844-1900). Lúc ấy tôi không biết ông là một triết gia bài Kitô Giáo. Thế rồi vào một buổi chiều, khoảng 3 giờ, tôi trông thấy một sĩ quan bước vào quán bar. Tôi nhận ra ngay nhánh ôliu gắn trước ngực cho biết đây là Linh Mục. Cha người Pháp. Tôi có thiện cảm ngay với Cha và mời Cha dùng cà-phê. Vị Linh Mục vui vẻ mở lời trước:
– Một hạ sĩ lê-dương đọc sách triết gia Nietzsche là điều tôi chưa từng thấy! Nếu anh thích đọc loại sách này thì chúng ta có thể gặp nhau để hàn huyên.
Tôi chấp thuận đề nghị. Cha làm cho tôi khám phá ra rằng trong cuộc đời có nhiều cái đẹp. Điều mà tôi không hề biết cho đến lúc ấy. Sự kiện này khiến lòng tôi mở rộng và kể từ giây phút ấy, tôi bắt đầu thay đổi lối sống. Tôi thường xuyên đến gặp Cha Tuyên Úy. Cha dạy tôi giáo lý và sau bữa ăn tối chúng tôi cùng uống một ly whisky. Đây là một kinh nghiệm khó quên giúp xây dựng cuộc sống tâm linh của tôi trong vòng 3 năm.
Khi rời quân ngũ tôi đến phục vụ bữa ăn tối cho người nghèo nơi khu phố Ariane của thành phố Nice do hội từ thiện MIR tổ chức. Nơi đây tôi gặp Cha Patrick Bruzzone và tôi làm việc cho hội từ thiện trong vòng một năm. Phục vụ người nghèo, phục vụ những anh chị em không nhà không cửa trở thành một móc nối khiến tôi tự nhủ:
– Có lẽ mình được kêu gọi trở thành Linh Mục để phục vụ người nghèo, để dâng hiến cuộc đời cho tha nhân.
Khi phục vụ người nghèo tôi ngỡ ngàng khám phá ra rằng chính người nghèo ban tặng cho chúng ta Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Cuộc gặp gỡ người nghèo là một trong những cuộc gặp gỡ quan trọng ghi dấu ấn trong cuộc đời tôi.
Tôi xuất thân từ một gia đình Công Giáo Ý di dân sang Pháp. Tôi có ba chị gái và một anh trai đã qua đời. Gia đình tôi không sống đạo nhưng khi còn nhỏ thân phụ dạy chúng tôi cầu nguyện. Cho đến năm tôi lên 8 tuổi, chúng tôi chia phiên nhau đọc kinh theo lượt. Chúng tôi không đi lễ thường xuyên vì Song Thân chúng tôi phải làm lụng vất vả nhưng chúng tôi cầu nguyện nhiều và tôi có thói quen ngước mắt van xin Trời Cao mỗi khi gặp khó khăn.
Tôi đã trải qua thời gian huấn luyện 8 năm trước khi được truyền chức phó tế. Đối với tôi đây là thời gian dài giúp tôi đạt đến mức trưởng thành và đặt trọn niềm tin tưởng nơi THIÊN CHÚA.
Điều khiến cho tôi cảm thấy hạnh phúc trong công tác mục vụ nơi giáo xứ là được gặp gỡ chia sẻ kinh nghiệm với người dân. Ngoài ra tôi cũng làm tuyên úy nhà thương tại Rennes trong vòng hai năm. Tôi trải qua những thời điểm đáng ghi nhớ nơi khu vực dành cho bệnh nhân cuối đời và bị ung thư. Đồng hành với những người sắp vĩnh viễn ra đi và giúp họ ra đi trong an bình, thật vô cùng quan trọng. Đối với tôi, Linh Mục là người để cho ơn thánh Chúa tác động. Nếu Chúa muốn dùng tôi để khuyến khích nâng đỡ người khác thì tôi sẵn sàng có mặt.
Tôi cảm thấy hạnh phúc sống Đức Tin của tôi. Đức Chúa GIÊSU KITÔ đã sống lại trong cuộc đời tôi. Làm Kitô-hữu có nghĩa là vừa vác thánh giá vừa sống Đức Tin. Trong cuộc sống luôn luôn có khó khăn có thử thách nhưng điều chính yếu là tôi cảm thấy hạnh phúc vì có mối quan hệ mật thiết thân tình với THIÊN CHÚA và được tiếp xúc với tha nhân.
… Đức Chúa GIÊSU phán cùng các môn đệ rằng: ”Thầy là cây nho thật, và CHA Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. Anh em được thanh sạch rồi nhờ Lời Thầy đã nói với anh em. Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu anh em ở lại trong Thầy và Lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý. Điều làm CHÚA CHA được tôn vinh chính là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy”(Gioan 15,1-8).
(”Égise des Alpes-Maritimes”, Revue du diocèse de Nice, No 22, Juillet 2015, trang 16-17)
(Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, RadioVaticana 12.11.2015)