Thánh Luca là tác giả để lại nhiều dữ liệu nhất về Đức Maria trong tất cả các các tác giả sách Tân Ước. Ngài có nhiều đoạn trình thuật về những biến cố cụ thể trong cuộc lự hành đức tin của Mẹ Maria. Cả năm biến cố trong “Mầu nhiệm 5 sự vui” của Kinh Mân Côi đều nằm trong số những trình thuật của thánh Luca.
Các biến cố : Truyền tin; Đức Maria đi viếng chị họ Elisabet; Đức Mẹ sinh Đức Giê-su trong hang đá; Đức Mẹ dâng Đức Giêsu trong đền thánh và Đức Mẹ tìm gặp Đức Giêsu trong đền thánh. Trong từng biến cố ấy, thánh Luca đều phác họa lên những nét đẹp rất riêng về Đức Mẹ Maria. Và rồi, ta dừng lại một chút để ta nhìn thấy những nét đẹp của Đức Maria trong trình thuật “Truyền Tin” (Lc 1,26-38).
Phải nói rằng “biến cố Truyền Tin” là biến cố hết sức trọng đại cho cuộc đời Đức Maria cách riêng và cho Giáo Hội nói chung bởi lẽ chính qua biến cố ấy mà Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ từ ngàn đời, đánh dấu bằng việc Nhập Thể, nhập thế của Ngôi Hai Thiên Chúa. Hẳn nhiên, có rất nhiều ý nghĩa thần học được nói đến trong trình thuật “Truyền Tin” nhưng ở đây chỉ xin để ý đường nét làm nên chân dung tuyệt vời của Mẹ Maria.
Trong trình thuật này, ta thấy chân dung Mẹ Maria vẽ lên với ít nhất các đặc tính về Mẹ.
Đại diện cho dân thánh,Mẹ là thiếu nữ Sion được đón nhận ân sủng của Thiên Chúa.
Mở đầu với biến cố “Tuyền tin” thiên cứ vào nhà của Đức Maria và chào rằng: “Mừng vui lên”. Đây là cụm từ đượng Kinh Thánh Cựu Ước sử dụng ít nhất 3 lần (Xp 3,14; Dcr 9,9; Ge 2,21) khi mời gọi Thiếu Nữ Sion hãy vui lên vì thời Đấng Mêsia đã gần đến. Lời mời gọi này nhắm đến niềm vui cánh chung khi Thiên Chúa cứu độ dân Ngài. Sau này, các giáo phụ thường xem Đức Maria chính là thiếu nữ Sion ấy, người đại diện cho toàn dân Israel để đón nhận lời mời gọi của thiên sứ và mở ra kỷ nguyên cứu độ cho dân Israel và toàn thể nhân loại.
“Bà được sủng ái, nghĩa là Thiên Chúa đã ban cho bà cách vĩnh viễn ân sủng của Người, sự sủng ái của Người, sự bằng lòng của Người. Tình yêu đầy nhân ái của Người được ngỏ với bà”. Thiên thần nói tiếp: “Vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (1, 30); câu này diễn tả ý nghĩa của cụm từ “bà đầy ân sủng”. Đặc điểm này nơi Đức Maria nổi bật đến nỗi thiên thần đã chào người không bằng tên riêng “Maria”, mà bằng “Bà-được-sủng-ái” như một tên riêng mới. Quan hệ của Thiên Chúa với Mẹ được diễn tả ra như thế. Nền tảng ơn gọi của Đức Maria và của mọi niềm vui được xác định như thế. Hầu như có thể nói “Maria” là tên Mẹ đã nhận được từ cha mẹ; còn “Bà-đầy-ân-sủng được-sủng-ái” là tên đã được Thiên Chúa ban cho Mẹ.
Với quyền năng của Chúa và trong quyền năng của Chúa, Mẹ là Đấng đầy ân sủng.Lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin, lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến. Mẹ đầy ân sủng vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời, và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.
Mẹ Maria chắc hẳn đã không khỏi ngỡ ngàng vì tên gọi mới mà thiên sứ đặt cho mình: “Đấng đầy ân sủng”. “Đấng đầy ân sủng” là cụm từ được bản dịch Vulgata sử dụng. Đây là tên gọi rất đẹp và rất đặc biệt. Theo nguyên ngữ “kêkharitômênê” có nhiều nghĩa khác nhau như: duyên dáng, dễ thương, vừa lòng Thiên Chúa… Động tính từ “kêkharitômênê” được chia ở thì hoàn thành cho thấy Đức Maria đã, đang và sẽ là người tràn đầy ân sủng Chúa ban và đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi việc.
Niềm hạnh phúc vô bờ vì Mẹ được Thiên Chúa ở cùng.
“Đức Chúa ở cùng bà”, câu này nhắm tới sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Đây không phải là một sự hiện diện tổng quát (và mơ hồ) của Thiên Chúa, nhưng là sự trợ giúp thực sự, hữu hiệu. Lời đảm bảo này chỉ được ban cho những vĩ nhân được kêu gọi trong lịch sử dân Thiên Chúa (Giacóp, Môsê, Giôsuê, Ghít-ôn, Đavít). Thiên Chúa không chỉ giới hạn vào việc kêu gọi, rồi bỏ mặc người ta, nhưng đồng hành với họ và làm cho họ có khả năng chu toàn nhiệm vụ. Người đảm bảo là Người hiện diện và trợ giúp họ thường xuyên. “Đức Chúa ở cùng bà” sẽ được chứng thực bằng cuộc chào đời của con trẻ.
Lời của sứ thần “Thiên Chúa ở cùng bà” vừa diễn tả thực tiễn vừa là lời chúc. Thiên Chúa ở cùng là một ân sủng nhưng cũng kèm theo một trách vụ. Trong Cựu Ước khi các ngôn sứ nhận lãnh một trách vụ thì đồng thời họ cũng được bảo đảm là Thiên Chúa ở cùng họ. Như thế, Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Mẹ đủ sức mang trọng trách làm Mẹ Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người. Đức Chúa ở cùng nên Mẹ mới tràn đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng thì Mẹ mới dám can đảm đón nhận sứ mạng và Đức Chúa ở cùng thì Mẹ mới đủ sức cho sứ mạng tương lai.
Điều tuyệt diệu mà ta thấy là Mẹ đẹp lòng Thiên Chúa, Mẹ làm vừa lòng Thiên Chúa. Cụm từ này xác nhận lại tên gọi “Đấng đầy ân sủng” mà sứ thần đã gọi Đức Maria trước đó. Mẹ đẹp lòng Thiên Chúa, vừa lòng Thiên Chúa hay Thiên Chúa ưng ý về Mẹ. Đức Maria thực sự đẹp lòng Thiên Chúa không phải do chính công đức của Mẹ nhưng trên hết là do ân sủng mà Thiên Chúa ban cho. Thiên Chúa đã chọn lựa và đã làm cho Mẹ trở nên xứng đáng để mang thai Con Thiên Chúa làm người.
Và hết sức khiêm tốn, Mẹ nhận Mẹ là nữ tỳ của Thiên Chúa. Đây chính là tước hiệu mà Đức Mẹ tự nhận về mình trước thiên sứ, trước một sứ mạng cao cả Thiên Chúa trao ban cho Mẹ. Truyền thống Giáo Hội dựa vào điểm này để tôn vinh sự khiêm hạ của Mẹ Maria hay nói đúng hơn là Mẹ đã nhìn nhận đúng thân phận và vị trí của mình. Trong “năm mầu nhiệm vui” của Kinh Mân côi, khi suy gẫm mầu nhiệm thứ nhất: “thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai” thì lời cầu xin là: “cho được ở khiêm nhường”. Có thể hơi khập khiểng khi lấy lời cầu nguyện của Kinh Mân Côi minh giải cho ý tưởng của Kinh Thánh. Tuy nhiên, quả thật truyền thống Giáo Hội đã thừa nhận sự khiêm nhường của Đức Maria trong lời bộc bạch: “Tôi là tôi tớ Chúa” và đã lấy đó làm mẫu gương cho đời sống khiêm nhường của mình.
Tuyệt đỉnh của lời xin vâng mà Mẹ thưa với sứ thần : “Xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” Sau khi nhìn nhận mình là “tôi tớ” là nữ tỳ, Đức Maria đã thưa lên cùng Chúa: “Xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”. Đây là câu nói khá lạ lùng vì mạch văn đang kể lại cuộc đối thoại giữa Đức Maria và sứ thần nhưng trong câu này thì Đức Maria lại thưa lên cùng Thiên Chúa. Điều này chứng tỏ rằng Đức Maria đặt mình trong tương quan với chính Chúa trong cuộc gặp gỡ này. Cuộc đối thoại của thiên sứ và Đức Maria kết thúc, giờ đây Đức Maria đã sẵn lòng hướng lên Thiên Chúa, mở lòng đón nhận sứ mạng Ngài trao gởi mặc cho những uẩn khúc trong lòng và khó khăn trước mắt.
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không? Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Đây là đoạn đỉnh điểm và cũng là đoạn kết tuyệt vời nhất của trình thuật về biến cố “truyền tin” cho Đức Mẹ. Đức Mẹ khiêm tốn xin Thiên Chúa thi hành thánh ý Ngài trên cuộc đời Mẹ. Đó là ưu phẩm tuyệt vời nhất của Đức Mẹ. Ưu phẩm ấy có tên là “Xin Vâng”. Ngoài Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa là cội nguồn và kiểu mẫu duy nhất cho sự vâng lời khi Ngài vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá thì chỉ có Đức Maria, thụ tạo duy nhất có được bản “copy” vâng lời giống với bản chính, rõ ràng, sáng sủa nhất.
Lời xin vâng của Mẹ Maria có ý nghĩa đặc biệt không phải cho riêng cuộc đời Mẹ nhưng khi đặt trong viễn ảnh Mầu Nhiệm Cứu Độ. Chính sự xin vâng ấy đã khởi đầu cho hành trình làm người của Con Thiên Chúa. Qua đó, Thiên Chúa thực hiện lời hứa, biểu lộ lòng thành tín của Ngài thực thi công trình cứu độ của Ngài trên nhân loại. Mẹ xin vâng không phải vì chính Mẹ nhưng mang lấy vận mạng của toàn nhân loại.
Huệ Minh