Tôi phải viết bài này vì đã được chứng kiến một vài việc xét thấy không phù hợp với giáo lý và niềm tin của Giáo Hội về việc cử hành lễ tang (funeral mass) cho ai đã ly trần . Tôi cần nói để giáo dân khỏi hoang mang khi có thể còn phải chứng kiến một việc tương tự không phù hợp với văn hóa Việt Nam và quan trọng hơn là giáo lý của Giáo Hội về việc cầu nguyện cho những người đã chết.
Thật vậy, như tôi đã có đôi lần viết rằnglễ tang (funeral mass) cho bất cứ ai ly trần- dù là giáo dân, hay linh mục, giám mục và cả Đức Giáo Hoàng nữa, thì cũng không bao giờ làlễ cướihaylễ phong thánh(canonization) cho ai, dù cho biết rằng người quá cố là người đã sống một đời sống đạo đức thánh thiện đáng được hưởng phúc Thiên đàng theo nhãn quan con người. Phải nói như vậy, vì không ai có thể biết được Chúa phán xét ra sao cho một người đã ly trần, kể cả cho những người đã tự tử chết, hoặc chết mà không kịp được xức dầu và lãnh phép lành Tòa Thánh.
Vì Giáo Hội không biết được số phận đời đời của họ, nên chỉ dạy các tín hữu phải cầu nguyện cho những linh hồn đã ly trần mà thôi, dù người đó đã sống tốt lành hay bê bối ra sao, trước con mắt của người đời… Nghĩa là, ta không thể phán đoán ai đã được lên Thiên đàng rồi nên khỏi cần cầu nguyện cho họ nữa, hoặc ai đã sa hỏa ngục rồi nên cũng không cần cầu nguyện nữa.
Nhưng thực tế đã cho thấy là có một số linh mục đã biến lễ tang thành lễ phong thánh hay lễ cưới. Biến lễ tang thành lễ phong thánh, khi giảng rằng người này đã sống quá tốt lành nên chắc chắc đã được vào thiên đàng hưởng Thánh nhan Chúa rồi ! Nếu biết chắc như vậy, thì dâng lễ cầu nguyện cho họ làm gì nữa ? Thật là điều không cần thiết, vì có giáo lý nào dạy dâng lễ cầu cho một ông thánh hay bà thánh nào trên Thiên Đàng đâu??? hay chỉ có lễ kính, lễ nhớ một hay nhiều vị thánh mà Giáo Hội đã tuyên phong lên hàng hiển thánh mà thôi.
Thử hỏi : có ai sống thánh thiện hơn các Đức Giáo Hoàng ? Nhưng khi một vị qua đời thì Giáo Hội để tang trong 9 ngày và dâng lễ cầu hồn cho, chứ chưa hề tức khắc phong thánh cho ai bao giờ.
Có phong thánh cho ai thì cũng phải chờ một thời gian dài ngắn và đòi hỏi một số điều kiện như có 3 phép lạ được kiểm chứng nhờ cầu xin vị đã ly trần mà Chúa ban cho ai cầu xin, cũng như có đủ bằng chứng về đời sống thánh thiện của vị đó. Như vậy, dứt khoát không ai được tự ý phong thánh cho người đã ly trần trong một tang lễ, khi giảng rằng người quá cố – mà xác còn đang nằm trong nhà thờ đây – đã vào thiên đàng rồi, vì khi còn sống đã làm biết bao việc từ thiện, giúp xây nhà thờ, nhà Dòng v.v. Giảng như vậy chỉ có tác dụng đề cao người chết để làm vui lòng cho thân nhân còn sống mà thôi, nhưng đã đi vượt khỏi quyền phong thánh của Giáo Hội.
Lại nữa, trong một tang lễ mà tôi tham dự đồng tế, tôi rất đỗi ngạc nhiên khi nghe linh mục chủ tế là con của người đã ly trần, đã biến lễ tang của cha mình thành lễ cưới khi giảng rằng : hôm nay là ngày vui mừng vì cha tôi được vào dự bàn tiệc với rượu ngon và thịt béo, theo lời ngôn sứ I-sai-a nói về Tiệc cánh chung như sau:
“Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc
Tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon
Thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế
Trên núi này Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân
Ngày ấy, người ta sẽ nói: Đây là Thiên Chúa chúng ta
Chúng ta trông đợi Người và đã được Người thương cứu độ
Chính Người là ĐỨC CHÚA chúng ta từng đợi trông
Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ”( Is 25:6- 9)
Lời ngôn sứ trên đây chỉ có ý nói về ngày sau hết khi Thiên Chúa mở tiệc khoản đãi những ai được cứu độ để vào dự bàn tiệc Nước Trời đã dọn sẵn cho họ. Nhưng có biết bao người đã từ chối không tham dự viện lý do này, lý do khác để khước từ lời mời như ta đọc thấy trong dụ ngôn “Tiệc cưới” của Tin Mừng Thánh Mátthêu (Mt 22:1-14; Lc 14:15-24).
Nghĩa là không phải tất cả mọi người, sau khi chết, đều đương nhiên được vào dự Tiệc “với rượu và thịt ngon” như ngôn sứ I-sai-a nói trên. Đó chỉ là điều mong muốn của Thiên Chúa “Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biêt chân lý”(1 Tm 2:4).
Chúa mong muốn như vậy vì Chúa là tình thương và khoan dung tha thứ. Nhưng con người vẫn có tự do để đáp lời mời gọi của Chúa vào dự tiệc cưới đã dọn sẵn hay khước từ lời mời đó vì còn quá quyến luyến những lợi lại và vui thú tội lỗi chóng qua ở đời này. Vì thế, bàn tiệc Nước Trời không đương nhiên dọn sẵn cho hết mọi người sau khi chết trong thân xác, mà chỉ dọn sẵn cho những ai có thiện chí muốn vào tham dự qua quyết tâm từ bỏ những quyến rũ của thế gian và cám dỗ của ma quỉ khi sống trên trần thế này.
Nghĩa là nếu người ta không quyết tâm tìm và yêu mến Chúa, trên hết mọi sự để xa tránh tội lỗi và sống theo đường lối của Chúa, thì họ đã từ chối lời mời của Chúa vào dự “bàn tiệc Nước Trời” như những khách được mời đã viện đủ lý do để không đến dự tiệc cưới của con vua trong dụ ngôn tiệc cướimà Chúa Giêsu đã kể trong Tin Mừng Thánh Mátthêu 22 và tương tự trong Luca chương 14.
Nhưng ai là người có thiện chí muốn sống theo đường lối của Chúa để cuối cùng được vào dự “Tiệc Nước Trời” thì chỉ có Chúa biết và phán đoán đúng mà thôi. Chúng ta hoàn toàn không biết được nên chỉ biết cầu nguyện cho những người đã ly trần như Giáo Hội dạy mà thôi.
Lại nữa, trong mọi nền văn hóa nhân loại, cái chết là điều đau khổ nhất cho thân nhân còn sống, nên thương khóc người thân đã ra đi là điều tự nhiên phù hợp với nhân tính và đức tin. Chính Chúa Giêsu, khi mang thân phận con người, cũng đã cảm thông sự đau khổ này, nên khi nghe tin người bạn của Chúa là Lazarô chết, Chúa đã đến trước mồ của anh và đã“thổn thức tronglòng”khi thấy Maria, chị của Lazarô khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc.
Nhưng Chúa không nói với họ là “ hãy vui mừng lên vì Lazarô đã vào dự bàn tiệc “Nước Trời với rượu và thịt ngon” rồi. Ngược laị Chúa đã khóc hay thổn thức trong lòng và nói với Mácta rằng : “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống” (Ga 11:25).
Sau đó Chúa đã truyền cho Lazarô chỗi dậy, ra khỏi mồ, dù đã nằm chết được bốn ngày để an ủi chị em Maria và cũng để chứng mình lời Người vừa nói là “Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống”.
Như thế, khóc thương người đã ly trần là điều tự nhiên, phù hợp với nhân tính, và văn hóa của mọi dân tộc (người da đen và Mễ Tây Cơ còn khóc to hơn người Việt mỗi khi có thân nhân chết). Và Giáo Hội cũng không dạy phải biến lễ tang thành đám cưới, để thân nhân đừng khóc thương và để tang ai nữa.
Ngược lại Giáo Hội chỉ qui định nghi thức tang lễ (Order of Christian Funerals [Ordo Exsequiarum]) cử hành từ trong nhà quàn, đến nhà thờ và tiễn đưa ra ngoài nghĩa trang. Cũng như dạy phải cầu nguyện cho người đã ly trần bất kể người đó đã sống ra sao trước khi chết. Như vậy, mượn lời ngôn sứ I-sai-a nói vềbữa tiệc cánh chungkhi những người đã được cứu độ vào dự bàn tiệc Nước Trời, để biến lễ tang thành lễ cưới là điều sai lầm xét về cả hai mặt văn hóa và giáo lý của Giáo Hội.
Vẫn biết ai cũng có quyền hy vọng cho thân nhân mình được phần rỗi để vào dự bàn tiệc Nước Trời đã dọn sẵn, nhưng làm sao chúng ta biết ngay được chắc chắn ai đã được vào để mừng vui với họ và không cần cầu nguyện và khóc thương nữa ? Và khóc thương thì có sao đâu, vì niềm tin và Giáo Lý của Giáo Hội đâu có ngăn cấm việc này ?
Giáo Hội chỉ dạy các tin hữu tin có sự sống lại của những ai đã ly trần, và đây là niềm an ủi cho chúng ta mỗi khi phải tiễn biệt ai trong trần thế này qua cái chết.
Chính vì không biết được phần rỗi của ai, nên Giáo Hội chỉ dạy phải cầu xin cho người đã ly trần mà thôi. Cụ thể, khi nghe tin một hồng y hay giám mục nào chết, Đức Thánh Cha luôn gửi lời phân ưu chia buồn (condolences) tới thân nhân hay giáo phận của vị đã qua đời. Chưa hề có Giáo Hoàng nào đã gửi lời chúc mừng đến thân nhân của ai qua đời , vì cho rằng người quá cố đã vào “Bàn Tiệc Nước Trời” rồi nên phải mừng vui., thay vì khóc thương và để tang !
Như vậy, biến lễ tang thành đám cưới hay lễ phong thánh là sai hoàn toàn mục đích của việc cầu xin cho người đã chết như giáo lý và giáo luật của Giáo Hội qui định (x. Giáo luật đ. 1177).
Tuy nhiên, trước cái chết của ai, Giáo lý Giáo Hội dạy rằng:“Trong sự chết, Thiên Chúa gọi con người đến với Ngài. Bởi vậy người Ki tô hữu có thể có một ước mơ như Thánh Phaolô đã nói :“…ước ao của tôi là ra đi để được ở vói Chúa Kitô, điều này tốt hơn bộiphần”(Pl 1:23). Và người Kitô hữu cũng có thể biến sự chết của mình thành một hành vi vâng phục với Chúa Cha, theo gương Chúa Kitô (Lc 23:46)”( x. SGLGHCG số 1011).
Nói rõ hơn, trước sự chết, thái độ và tâm tình thích hợp của người tín hữu là hy vọng hay trông cậy Chúa sẽ cho người thân mà mình đang khóc thương bây giờ, được sống lại để vào Nước Trời vui hưởng hạnh phúc Thiên Đàng, như Chúa Kitô đã hứa cho những ai tin Người thì“dùđã chết cũng sẽ được sống lại”.
Tóm lại, lễ cưới, lễ tang, lễ phong thánh đều có ý nghĩa và mục đích riêng khác nhau theo giáo lý và phụng vụ của Giáo Hội, nên không thể lẫn lộn làm theo ý riêng của mình được. Vả lại, làm như vậy là không am hiểu mục đích và ý nghĩa của phụng vụ thánh dành cho mỗi cử hành khác nhau.
Chúng ta đều được khuyến khích cậy trông và mong ước cho người thân đã ly trần của mình được vào hưởng Thánh Nhan Chúa. Và cầu nguyện cho họ chính là để nói lên ước muốn đó. Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn không biết Chúa phán xét ra sao cho người thân của mình đã ly trần, nên chỉ biết trông cậy vào lòng khoan dung thương xót của Chúa mà thôi; chứ không nên đi quá giới hạn đó để tỏ ra vui mừng như thể đã thấy được người thân của mình đang dự “Bàn Tiệc Nước Trời” khiến không cần phải khóc thương hay để tang nữa.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn