Hỏi: Xin cha giải thích và thảo luận về các ngăn trở cho người muốn chịu chức Linh mục. Cám ơn cha. – L.B., Madison, Wisconsin (Mỹ)
Đáp: Đây là một chủ đề rất phức tạp và rơi nhiều vào lĩnh vực Giáo luật hơn là Phụng vụ. Tuy nhiên, ít nhất chúng ta có thể phác thảo các khái niệm chủ yếu được tìm thấy trong các Điều Giáo luật từ số 1040 đến số1049. Các Điều này giải quyết các ngăn trở và điều bất hợp luật đối với việc chịu chức Linh mục và hành sử chức thánh.
Đây không phải là toàn bộ các điều kiện để chịu chức Linh mục; còn có các điều kiện khác, như hoàn thành các môn học thần học cần thiết, được kết nạp vào hàng ứng viên linh mục, đã lãnh nhận tác vụ đọc sách và giúp lễ, phải tự viết đơn và ký tên vào đơn xin chịu chức linh mục, và dự tĩnh tâm theo qui định trước khi chịu chức (Xem các Điều 1033-1039).
Các điều Giáo luật liên quan mang tên:
“Những Ðiều Bất Hợp Luật Và Những Ngăn Trở Khác” (Bản dịch Việt ngữ của Bộ Giáo Luật do các Linh Mục sau đây thực hiện: Nguyễn Văn Phương, Phan Tấn Thành, Vũ Văn Thiện, Mai Ðức Vinh)
Điều 1040. “Những người vướng mắc một ngăn trở nào đó hoặc vĩnh viễn, – luật gọi là “điều bất hợp luật” -, hoặc đơn thường, phải bị loại trừ không được lãnh chức thánh. Tuy nhiên, không ai bị coi là mắc ngăn trở, ngoài những ngăn trở liệt kê trong các điều luật sau đây.”
Một điều bất hợp luật là một ngăn trở vĩnh viễn, mặc dù đôi khi có sự miễn chuẩn. Một ngăn trở đơn thường có thể chấm dứt bằng các cách khác. Ví dụ, một người khi còn trẻ có hành vi ly giáo và sau đó được hòa giải với Giáo Hội, sẽ luôn cần sự miễn chuẩn trước khi chịu chức. Một người đàn ông đã lập gia đình có một ngăn trở đơn giản, vốn sẽ biến mất, nếu ông góa vợ hoặc, trong trường hợp hiếm hoi, được miễn chuẩn.
Việc miễn chuẩn này hầu hết được ban cho các cựu giáo sĩ Tin lành đã lập gia đình, khi họ được nhận vào chức linh mục. Đôi khi nó được cấp, khi cả hai vợ chồng trong một cuộc hôn nhân hợp lệ quyết định theo đuổi một ơn thiên triệu linh mục, nhưng trường hợp như vậy là hiếm có.
Vì vậy, Những Ðiều Bất Hợp Luật Và Những Ngăn Trở Khác là:
Điều 1041. “Những trường hợp ‘bất hợp luật’ để chịu chức là:
1. người mắc bệnh điên khùng, hay bị một tâm bệnh khác mà theo ý kiến các nhà chuyên môn, đương sự không thể chu toàn đúng phép thừa tác vụ cách thích đáng được;
2. người phạm tội bội giáo, lạc giáo hay ly giáo;
3. người đã kết hôn, cho dù chỉ kết hôn dân sự, khi bị ngăn trở hôn nhân vì đã thành hôn trước đó, hoặc vì có chức thánh, hay có lời khấn công khai giữ khiết tịnh trọn đời; hoặc vì đương sự kết hôn với một người nữ đã kết hôn hữu hiệu hay đã bị ràng buộc bởi lời khấn khiết tịnh như vậy;
4. người phạm tội cố sát hoặc phá thai có hiệu quả, và tất cả những người cộng tác tích cực vào các tội đó;
5. người chủ tâm cưa cắt thân thể của mình hay của người khác cách nặng nề, hoặc đã mưu toan tự vẫn;
6. người đã thi hành một hành vi thánh chức dành riêng cho Giám Mục và Linh Mục, khi không có chức thánh đó hay đã có thánh chức nhưng đã bị cấm thi hành do một hình phạt giáo luật đã tuyên bố hay tuyên kết.”
Điều 1042. “Những trường hợp ngăn trở đơn thường không được chịu chức là:
1. người nam đang có đôi bạn, trừ khi được tiến cử hợp lệ lên chức Phó Tế vĩnh viễn;
2. người đang đảm nhiệm một chức vụ hay một việc quản trị có kèm theo việc tường trình mà giáo luật điều 285 và 286 cấm giáo sĩ. Ngăn trở này chấm dứt khi đương sự hết đảm nhiệm những công việc đó, hay đã hoàn tất việc tường trình;
3. người tân tòng, trừ khi Bản Quyền xét thấy họ đã vững vàng.”
Điều 1043. “ Nếu các tín hữu Kitô giáo biết được ngăn trở đối với chức thánh, họ có bổn phận tiết lộ chúng cho Đấng Bản quyền hoặc cha xứ, trước lễ truyền chức.”
Các Điều Giáo luật phân biệt giữa việc chịu chức Linh mục và hành sử chức thánh. Nói cách khác, các ngăn trở trên đây không nhất thiết làm cho việc chịu chức là không hợp lệ. Một người đàn ông có thể được truyền chức với một ngăn trở, vấn đề là liệu người ấy có thể hành sử chức thánh mình đã lãnh nhận hay không. Điều này được quy định trong các điều sau đây. Các điều này là rất rõ rằng người nào được chịu chức Linh mục, khi đang có điều bất hợp luật hoặc ngăn trở chưa được miễn chuẩn, thì bị cản trở hành sử chức thánh. Trường hợp ngoại lệ là có phạm tội trước về bội giáo, lạc giáo, ly giáo, trừ phi nó được công khai biết đến. Nếu che giấu, sự ngăn trở cản trở việc chịu chức, nhưng không cản trở việc hành sử chức thánh đã nhận.
Điều 1044 “(1) Những trường hợp bất hợp luật để hành sử các chức thánh đã lãnh nhận là:
1. người đã lãnh nhận thánh chức cách bất hợp pháp, bởi vì mắc một điều bất hợp luật để chịu chức;
2. người đã phạm tội nói đến trong điều 1041, số 2, nếu tội đã thành công khai;
3. người đã phạm tội nói đến trong điều 1041, các số 3, 4, 5, 6.
(2) Những trường hợp ngăn trở không được hành sử chức thánh là:
1. người đã chịu chức cách bất hợp pháp vì bị ngăn trở không được chịu chức.
2. người mắc bệnh điên rồ hay một tâm bệnh nào khác đến nói trong điều 1041, số 1, cho đến chừng nào Bản Quyền cho phép hành sử chức thánh, sau khi đã bàn hỏi ý kiến của nhà chuyên môn.”
Điều 1045. “Việc không biết các trường hợp bất hợp luật và các ngăn trở không giải trừ cho các đương sự.”
Điều 1046. “Các điều bất hợp luật và các ngăn trở tăng thêm lên do những nguyên nhân khác nhau, chứ không do cùng một nguyên nhân lặp đi lặp lại, trừ trường hợp bất hợp luật do tội cố sát hay phá thai có hiệu quả.
Điều 1047 “(1) Tòa Thánh dành quyền miễn chuẩn các điều bất hợp luật, nếu sự kiện làm nền tảng đã bị đưa ra tòa án.
(2) Tòa Thánh cũng dành quyền miễn chuẩn các điều bất hợp luật và các ngăn trở cấm chịu chức sau đây:
1. những bất hợp luật do tội phạm công khai nói ở điều 1041, các số 2 và 3;
2. bất hợp luật do tội phạm hoặc công khai hoặc kín đáo nói ở điều 1041, số 4;
3. ngăn trở nói ở điều 1042, số 1.
(3) Tòa Thánh cũng dành quyền miễn chuẩn các điều bất hợp luật để hành sử chức thánh đã lãnh, nói ở điều 1041, số 3, nhưng chỉ trong những trường hợp đã trở thành công khai; và nói ở điều 1041, số 4, cả trong những trường hợp còn kín đáo.
(4) Bản Quyền có thể miễn chuẩn những điều bất hợp luật và ngăn trở không dành cho Tòa Thánh.”
Điều 1048. “Trong những trường hợp còn kín và rất khẩn cấp, nếu không thể đến với Bản Quyền được, hoặc không thể đến Tòa Ân Giải Tòa Thánh khi gặp những bất hợp luật nói ở điều 1041, số 3 và 4, và có nguy cơ thiệt hại nặng hay nguy cơ mất tiếng tốt, thì ai mắc phải bất hợp luật để hành sử chức thánh vẫn có thể cứ hành sử, nhưng họ có bổn phận phải đến sớm hết sức với Bản Quyền hay Tòa Ân Giải Tòa Thánh để xin miễn chuẩn, qua trung gian cha giải tội và không cần xưng danh tánh.”
Điều 1049. “(1) Trong đơn xin chuẩn các điều bất hợp luật và các ngăn trở, phải kê khai tất cả mọi bất hợp luật và ngăn trở. Tuy nhiên, ơn miễn chuẩn tổng quát có giá trị cho cả những bất hợp luật và ngăn trở đã vô tình quên kê khai, trừ những bất hợp luật nói ở điều 1041, số 4 và những bất hợp luật khác đã đưa ra tòa án; nhưng không có giá trị cho bất hợp luật và ngăn trở đã giấu diếm vì gian ý.
(2) Nếu là bất hợp luật cố sát hoặc phá thai, thì để sự miễn chuẩn được hữu hiệu, cần phải nói rõ số lần phạm tội nữa.
(3) Ơn miễn chuẩn tổng quát về các bất hợp luật và ngăn trở cấm lãnh thánh chức, có giá trị cho mọi chức thánh.”
Có nhiều vấn đề cần được giải quyết liên quan đến việc áp dụng các điều bất hợp luật và các ngăn trở, và mỗi trường hợp phải được giải quyết theo giá trị của nó. Các chuyên viên Giáo luật tranh luận về các điểm tinh tế của luật, để biết khi nào một số ngăn trở có thể được áp dụng hay không. Ví dụ, cần phải làm gì khi điều kiện tâm thần không là thường xuyên? Liệu một người đàn ông gây ra một cái chết do lái xe thiếu thận trọng có là bị sự ngăn trở do giết người không? Liệu một nỗ lực tự tử hồ nghi có là điều bất hợp luật không? Đây chỉ là một số trong các vấn đề cần phải được giải quyết.
Cuối cùng, hầu hết các chuyên viên Giáo luật sẽ đồng ý rằng hầu hết các điều bất hợp luật và các ngăn trở sẽ không áp dụng cho một người không là Công giáo vào thời gian phạm tội, mặc dù chúng phải được cân nhắc cẩn thận trong việc đánh giá liệu một người phù hợp với việc chịu chức Linh mục không.