Vấn đề căn bản là: Tiếng Hán Việt phải phát âm cách nào mới đúng? Căn cứ vào đâu?
Tiếng Hán Việt bắt nguồn từ chữ Hoa (chữ Hán), thì phải căn cứ theo chữ Hoa. Chữ Hoa đã có mấy ngàn năm nay, là lối chữ biểu ý, không có phiên âm, vậy làm sao phát âm? Thời xưa người Trung Quốc nhiều khi hiểu ý của chữ mà đọc âm chữ chưa đúng. Vì thế, vua Khang Hy, Triều Thanh, mới cho triệu tập tất cả các văn sĩ tài ba trong cả nước biên soạn một cuốn tự điển, ghi rõ cách phát âm của chữ Hoa, và được xuất bản vào năm 55 Triều Khang Hy (tức năm 1716) có tên là KHANG HY TỰ ĐIỂN. Từ đó, cách phát âm của chữ Hoa đều căn cứ vào Khang Hy Tự Điển.
Cách phiên âm của Khang Hy Tự Điển gọi là PHIÊN THIẾT. Xin lược dẫn:
Muốn ghi âm phải dùng hai chữ (tiếng) mà “nói lái” theo lối PHIÊN THIẾT. Lấy âm khởi đầu của chữ TRƯỚC với vận của chữ SAU, đọc nối liền lại; tiếng chữ trước định BỰC, có hai BỰC: thanh và trọc. (theo Tứ Thinh: bình, thương, khứ, nhập; thanh bình là dấu ngang, thanh thượng là dấu hỏi, thanh khứ là dấu sắc, thanh nhập là dấu sắc). TRỌC (trọc bình là dấu huyền, trọc thượng là dấu ngã, trọc khứ là dấu nặng, trọc nhập là dấu nặng). Chữ sau dùng làm vận và định loại THINH của tiếng, nghĩa là tiếng đầu là THANH âm, thì tiếng đó phải là THANH THINH, tức là chữ ấy phải là âm có dấu ngang hoặc dấu hỏi, sắc, sắc; ngược lại là TRỌC THINH, mang dấu huyền hoặc dấu ngã, nặng, nặng.
Tháng 10 là tháng Môi Côi, chữ Hoa là 玫 瑰.
Phiên thiết chữ 玫 là 謨 mô 杯 bôi, chữ cùng âm là 枚 ( 枚 tiếng Hán Việt lại đọc MAI, không cùng âm với chữ 玫).
Chữ “mô” cho âm khởi đầu m + vận của chữ sau ôi thành môi. (chữ môi phải dấu ngang, vì chữ 謨 mô dấu ngang, thuộc bực thanh bình, nên THINH của chữ đó phải là dấu ngang). Riêng nếu trong âm Trung Quốc có chữ nào đồng âm với chữ đó, thì có ghi lấy âm của chữ đó. Như chữ 玫 cùng âm với chữ 枚 trong âm Trung Quốc, để tiện cho người tra cứu, vì đa số người Trung Quốc không biết rành cách phiên thiết. Do đó, chữ 玫 đọc MÔI thì đúng theo phiên thiết, còn đọc MAI là đúng theo âm tiếng Hán Việt của chữ 枚 (là chữ cùng âm trong tiếng Hán của chữ 玫 ).
Để dễ nhìn, xin xem phần trình bày dưới đây:
Loại thanh Bậc thanh | Bình | Thượng | Khứ | Nhập |
THANH | ngang | hỏi | sắc | sắc |
TRỌC | huyền | ngã | nặng | nặng |
Cũng vậy, chữ 瑰 được phiên thiết là 公 CÔNG 回 HỒI, chữ cùng âm là 傀 ( 傀 Hán Việt đọc KHÔI).
Lấy âm khởi đầu c + vận của chữ sau ôi thành côi, dựa theo cách định THINH trên đây, ta sẽ hiểu tại sao công + hồi, không đọc cồi.
玫 瑰 môi côi là bông hồng (rosa).
Chữ 玫 (MÔI) có người đọc thành MÂN hay VĂN là vì nhầm lẫn chữ 玫 với chữ 玟. Hai chữ cùng là bộ ngọc, nhưng chữ 玫 bên phải đi với bộ 攵 phốc, còn chữ 玟 bên phải đi với bộ 文 (văn).
Phiên thiết chữ 玟 : 眉 mi 貧 bần, đọc MÂN. hoặc 無 vô, 分 phân, chữ cùng âm là 文 ( 文 Hán Việt là VĂN),theo phiên thiết: vô + phân đọc VÂN. Nhưng dù MÂN, VÂN hay VĂN đều do nhầm lẫn với chữ cùng âm hoặc nhầm lẫn với mặt chữ tương tự nhau nên đọc sai chữ khi dịch thôi.
Do đó, chúng ta nên dựa trên phiên thiết của KHANG HY TỰ ĐIỂN đọc là MÔI CÔI mới đúng.
Trên đây chỉ là trích phần liên quan phiên thiết cho hai chữ 玫瑰 Môi Côi.
Tôi muốn dựa trên cơ sở căn bản của KHANG HY TỰ ĐIỂN, trình bày về vấn đề đọc của tiếng Hán Việt thế nào mới đúng, để chúng ta có thể giải quyết mọi thắc mắc sau này.
Trích: Bài Giảng Chúa Nhật – Tháng 10/2005
Ghi chú:
– Hán Việt Tự Điển (Đào Duy Anh, 1957): Mai Côi
– Dictionnaire Vietnamien Chinois Français (Eugène Gouin des Missions Etrangères de Paris, 1957 Saigon): Môi (Mai) Côi.
– Hán Việt Tân Từ Điển (Nguyễn Quốc Hùng, 1975 Saigon): Mai Khôi (Côi).
– Từ Điển Hán Việt Hiện Đại (Nguyễn Kim Thản, 1994 Tp. HCM): Mai (Môi); Côi (Khôi).
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ