Bài nghiên cứu nầy còn nhiều hạn chế. Kính mong quí vị bổ túc, góp ý và đồng thời xin hiệp ý cầu nguyện cho quí Hội Dòng Mến Thánh Giá trung thành sống theo linh đạo và bước theo gương quí chị em Nữ tu đã hy sinh trong những năm tháng qua.
DÒNG MẾN THÁNH GIÁ
Với công cuộc TRUYỀN GIÁO tại Kon Tum
(1913 – 2013)
Trong HIẾN CHƯƠNG dòng MTG [1] Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Sài Gòn, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Bình tóm lược vai trò của dòng Mến Thánh Giá với sự phát triển Giáo Hội Việt
“GH Việt Nam, từ thuở khai nguyên đã được Thiên Chúa ban cho một quà tặng quý báu là Dòng Mến Thánh Giá như một cánh tay hữu hình của Đức Kitô, để cộng tác với Hội thầy giảng, hàng giáo sĩ bản quốc và các quý chức giáo dân xây dựng Nhiệm Thể Chúa Cứu Thế. Ân huệ ấy đến với GH Việt Nam tại Đàng Ngoài cũng như Đàng Trong qua trung gian của cha Phêrô Maria De La Motte (1624-1679). Người đã có công tổ chức đời sống GH Việt Nam thành cơ cấu vững chắc và sáng lập Dòng MTG là Hội Dòng nữ đầu tiên mang bản sắc Á Châu và hướng hẳn về việc truyền giáo cho lương dân”.
Nhận định trên của Đức Tổng Giám Mục thật ngắn gọn, súc tích về bản chất và mục đích của Hội Dòng Nữ MTG. Nếu thể thêm, chúng có thể nói lên sắc thái truyền giáo đa dạng của Dòng. Sắc thái độc đáo của công cuộc truyền giáo cho người dân tộc Tây Nguyên đã được ôm ấp trong con tim của Hội Dòng từ ngày mới chập chững vào đời cuối thể kỷ XVII, và được sống động ngay trên mảnh đất truyền giáo Kon Tum từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Chúng tôi xin trình bày:
II. Dòng MTG tại vùng truyền giáo Kon Tum vào đầu thế kỷ XX.
III- Thời kỳ chuyển biến canh tân từ thập niên 20 (thế kỷ XX).
IV- Dòng MTG Gò Thị – Qui Nhơn (1932-1940)
V. Giai đoạn 1963-2013
I. Hình thành Dòng MTG Đàng Trong – Tham gia vào công cuộc truyền giáo cho người dân tộc (1671-1767).
Dòng MTG đầu tiên của địa phận Đàng Trong được thành lập tại An Chỉ (Quảng Ngãi) vào năm 1671 là nguồn gốc của Dòng MTG Gò Thị sau nầy. Từ An Chỉ Dòng đã bắt đầu tham gia vào công cuộc truyền giáo cho người dân tộc Tây Nguyên ngay từ buổi khai nguyên của Dòng.
1. Hình thành Dòng MTG Đàng Trong tại An Chỉ
Tháng 9/1671 Đức Cha Lambert de la Motte vào địa phận miền Nam với 2 linh mục Việt Nam đầu tiên là Cha Giuse Trang và Luca Bền thăm các vùng Bình Khang, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi và Tourane. Ngài lưu lại Quảng Ngãi hơn 2 tháng. Tại đây có 3 họ đạo Kỳ cựu và đạo đức là họ Đức Bà An Chỉ, Thánh Thất Bầu-Tây, và Châu Me. Đức Cha chọn An Chỉ làm nơi lập Dòng MTG tiên khởi cho Địa Phận Đàng Trong [2].
“Tại đây các bà Lucia Kỳ một quả phụ đạo đức, hào hiệp. Đức Cha tỏ ý gởi trong nhà bà nầy mấy thiếu nữ tình nguyện dâng mình cho Chúa. Bà sẵn sàng nhận các chị ở trọ. Bà cũng vui lòng dâng cúng gia sản để Đức cha trưng dụng vào việc thiết lập tu viện. Được sự ưng thuận của bà Kỳ, Đức Cha liền gởi đến đợt nhất 5 chị và lần sau 5 chị nữa. Một trong những thiếu nữ nầy là em của cha Giuse Trang có đủ khả năng dìu dắt các chị em khác. Sau khi lo cho các thiếu nữ có nơi ổn định, Đức cha ban cho các chị bản Hiến Pháp như bản luật Ngài đã soạn cho các chị MTG Đàng Ngoài năm 1970 [3].
Sau đó, tháng 03/1972 Ngài lại về Thái Lan, công việc săn sóc và huấn luyện nhà dòng An Chỉ được giao phó cho cha Gullaume Nahot.
Tháng 7/1675 Đức Cha trở lại VN đến Hải Phố.
“Lợi dụng cơ hội thuận tiện, Đức Cha đã đến thăm nhà Dòng An Chỉ và nhận lời khấn của 12 nữ tu tại đây. Thấy số người xin nhận tu mỗi ngày một đông, Ngài muốn chia chị em thành nhiều chi nhánh. Mỗi nhà 10 người kể cả Bề trên đúng điều lệ thứ 2 của Bản Quy luật nguyên thủy” [4]
Sau đó Đức Cha về Thái Lan lâm bịnh qua đời ngày 15/06/1679
2. Việc truyền giáo cho vùng dân tộc
Trong thời gian nầy giữa thế kỷ XVII, các cha dòng Tên cũng như cha Courtaulin (thập niên 70) tìm cách truyền giáo vùng dân tộc người Bơnơm qua ngã An Chí [5].
a. An Chỉ:
Đạo công giáo đã được truyền bá ở tỉnh Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi) vào giữa thế kỷ XVII do các cha dòng Tên từ Hội An đến theo báo cáo của Đức Cha Bennetat, GM phó của Đức Cha Lefebre vào năm 1748, thì toàn tòng trong tỉnh Quảng Ngãi tính được 2000 tín hữu, chia làm 20 họ đạo, trong số có những họ đạo vẫn còn như An Chỉ, Cát Lâm, Cù Và, Châu Me, Bầu Gốc …
Các vùng Châu Me, Bầu Gốc, An Chỉ vừa là vùng giáp ranh dãy trường sơn, vừa có sông Vệ bắt nguồn từ dãy núi phía tây, con đường giao lưu buôn bán giữa người kinh và dân tộc Bơnơm, nói theo tên lúc đó là người Kha, người Lào. Nhờ vậy khi các cha dòng Tên rao giảng Tin Mừng tại vùng nầy, đều biết rõ số người dân tộc miền núi, các Ngài cố gắng đến và bắt đầu truyền giáo. Nhưng công cuộc truyền giáo gặp khó khăn về ngôn ngữ, bệnh tật, nhất là gặp thời kỳ bách hại đạo, nên đành bỏ cuộc.
Sau khi Tòa thánh giao cho Hội Thừa Sai
“Con đã đi thăm, vào sâu các vùng rừng núi, đi một ngày đường, có các người thượng gọi là người Kha hoặc người Lào để xem xét. Con không tìm ra một ngõ ngách nào để đi rao giảng Tin Mừng cho dân tộc này, là những người không có vua, chỉ thời mình Thiên Chúa, nhưng họ lẫn lộn Thiên Chúa thật với các mê tín chùa chiềng. Con vừa tìm ra con đường dẫn Cha Manuel (Bổn) đã đến sau đó ít lâu. Con đã trình bày việc phải làm trong những ngày lưu tại cư dân hoang dã để mở con đường cho một linh mục thừa sai, mà con sẽ gởi đi trong năm nay. Cha Manuel đã chấp nhận. Con đã cho người mua sắm cho cha một số lớn thuốc để lấy lòng dân tộc, Kim chỉ khâu mà họ xử dụng vào rất nhiều việc, với một số lớn xâu hạt cườm đủ màu sắc và các vật dụng được lòng cư dân nầy. Họ không thích vàng bạc đồng tiền. Tội nghiệp cho cư dân nầy, uống nước mưa. Rất khó khăn cho một linh mục thừa sai cữ các thứ thịt, vì hầu như không có gì để mà ăn. Liên lạc với một vị thừa sai sẽ ở Faifô rất dễ. Tất cả đã được chuẩn bị, vị Linh Mục Việt Nam lâm bệnh và con phải vội đi Quảng Ngãi lập tức, con đến nhà bà Kỳ và con cho cha Luca (Bền) biết, đến tìm gặp con cũng như bà phụ trách các chị Dòng đến để cùng với họ, con ổn định một số việc lôi thôi rắc rối [6].
Chúng ta không có nhiều tài liệu ghi lại rõ ràng những tham gia trực tiếp của các chị Dòng MTG vào công cuộc truyền giáo cho các dân tộc Cao Nguyên lúc mới hình thành Dòng. Ngoài ra vì thời cuộc cấm đạo, nên nhà Dòng bị phân tán, trốn tránh nhiều nơi. Tuy nhiên qua những việc chuẩn bị các đồ dùng cũng như các vật trao đổi để sống qua ngày với anh em dân tộc, tại nhà ở bà Lucia Kỳ không thể nào không có sự giúp đỡ của các chị MTG. Cũng như sau nầy, trong những giai đoạn bị bách đạo, Đức Cha Cuénot Giám mục địa Phận Đông Đàng Trong nhờ Anrê Năm Thuông lo liệu trưng những vùng đất giáp giới với Tây Nguyên như Đồng Sim, (Bình Định), Đồng Găng Trạm Gò (An Khê) để chuẩn bị nhân sự cho công cuộc truyền giáo trên Tây Nguyên sau này, hoặc phòng ngờ khi bị bắt đạo, linh mục thừa sai các nữ tu, cô nhi viện sẽ lánh nạn tại đó.
Tuy nhiên trong thư đề ngày 15 tháng 02 năm 1851, Đức cha Cuenot gởi cho nữ tu Dauphin, em gái của Ngài đang làm việc tại Nhà Tĩnh Tâm, ngài viết:
“Ở trong giáo phận của anh có tất cả 400 Dì Mến Thánh Giá chia làm 15 nhà. Họ không được ai chăm sóc cả và không có được dù 1/50 những phương tiện mà anh và em có ở Nhà Tĩnh Tâm. Anh đã gởi 100 Dì lên miền Thượng lo cho các phụ nữ trên ấy. Họ rất nhiệt tình…”[7]
Việc truyền giáo trực tiếp cho các dân tộc phải chờ thập niên thứ nhất của thế kỷ XX mới có các nữ tu dòng MTG tham gia trực tiếp tại vùng đất Kon Tum.
b- Mục đích của Dòng MTG
Dòng MTG Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài sống theo bản Quy luật được chính Đức Cha Lambert de la Motte soạn thảo, có những mục đích: thánh hóa bản thân bằng cách suy gẫm và noi gương Chúa Kitô Thập giá:
“Mục đích được minh định là hằng ngày suy gẫm sự thương khó Chúa Giêsu Kitô như phương thế tốt nhất để đạt đến sự hiểu biết và yêu mến Chúa”. [8]
Mục đích cơ bản khác được quy định từ đầu, dần dần nổi bật nhờ sự tham gia vào công cuộc truyền giáo của vị thừa sai. Mục đích truyền giáo, đặc biệt truyền giáo cho anh em người dân tộc được thai nghén từ giai đoạn đầu tiên của Dòng. Đức cha Lambert de là Motte đã vạch ra 5 điểm thực hành như sau:
1- Kết hợp liên tục bằng nước mắt, cầu nguyện duy nhất với công nghiệp Đức Kitô để xin Thiên Chúa cho người theo đạo và lan rộng khắp giáo phận.
2- Giáo dục thanh thiếu nữ người công giáo cũng như lương các công việc và nhân phẩm thuộc giới tính của người muốn tìm hiểu đạo.
3- Lo cho phụ nữ bệnh tật cả lương lẫn giáo để dùng con đường nầy lo cho các linh hồn và truyền giáo.
4- Rửa tội cho các em nguy tử.
5- Làm mọi cách lôi khéo các phụ nữ ra khỏi con đường tội lỗi. [9]
Nội quy Dòng MTG Quy Nhơn ghi rõ mục đích như sau:
“Dòng chị em MTG là một dòng truyền giáo nên mục đích thứ hai của chị em là dùng mọi phương tiện thiêng liêng và vật chất loan báo nước trời. Hội dòng con phục vụ GH theo tinh thần vị đấng lập dưới mọi hình thức như sau (…)[10]
Vị sáng lập đã vạch ra con đường tu đức Thập giá, và ngược lại đời sống truyền giáo vừa như kết quả đời sống Thập giá, đồng thời là một động lực để giúp các chị em MTG vươn tới đời sống thập giá. Với các giáo huẩn của GH ngày nay, truyền giáo là một tu đức, là một linh đạo trong đời sống người giáo dân cũng như người tu sĩ. Để thể hiện đời sống tuyền giáo cách tích cực cũng như đời sống thập giá, chị em MTG của địa phận Quy nhơn đã tham gia vào công cuộc truyền giáo tại địa phận Kon Tum từ đầu thế kỷ XX nầy.
II. Tu viện Dòng MTG Qui Nhơn tại vùng truyền giáo Kon Tum (1913)
Sau thời gian khó khăn và anh hùng (1850-1888) công việc truyền giáo vùng Kon tum tương đối ổn định, phát triển về mặt bằng cũng như chiều sâu trong giai đoạn 1888-1932: nhiều làng dân tộc tòng giáo, nhiều họ đạo thành hình, nhiều cơ sở y tế, xã hội, văn hóa, đào tạo nhân sự truyền giáo như “Bôl giáo phu” khánh thành năm 1908. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng to lớn và khẩn trương trong vùng truyền giáo, một số chị em MTG thuộc Qui Nhơn đã đến Kon Tum vào đầu năm 1913 để phục vụ.
1. Giai đoạn 1913-1935
Tờ nguyệt san Hlabar Tơbang năm 1913, số 24 trang 11 cho chúng ta biết rõ về danh tánh, Bà Bề Trên công việc cụ thể của các nữ tu MTG đến vùng truyền giáo Kon Tum vào năm 1913 như sau:
“Dòng chị em MTG ba ngày sau khi cấm phòng, có các chị nữ tu từ miền trung châu đến mà người Bahnar gọi là “dieng”. Có 4 bà cả thảy, bà đứng đầu tên là Kiểng, có 3 bà khác tên là Nghề, dì Lại, Di lưu [11].
Họ đến vùng Bahnar do Đ. Giám mục sai đi để giúp việc Chúa, như may vá quần áo, nấu cơm v.v.v… Những con người nầy rất tốt, ở độc thân suốt đời, không lo tìm sự giàu sang phú quý trần thế, mà chỉ phục vụ việc Thiên Chúa, hy vọng Ngài thưởng bội hậu trên Thiên quốc sau nầy. Những người nầy được gọi là “dieng”.
“Nhà mà chúng ta làm cho các bà ở đã xong rồi, nhà khá khang trang rộng rãi”.
Tu viện MTG nầy đóng góp tích cực, có thể nói, không thể thiếu cho cánh đồng truyền giáo Kon Tum. Các bà lo hậu cận cho vùng truyền giáo đặc biệt cho trường Cuénot, nơi đào tạo giảng viên giáo lý người dân tộc được gọi là Bôl giáo phu.
Vì đường giao thông trắc trở, mất an ninh, lương thực tại vùng truyền giáo thiếu hụt, mà con số linh mục, học sinh trường lại nhiều, nên các nữ tu phải vất vả đảm đang, tảo tần, Các bà phải đi bộ hoặc đi xe bò xuống Qui Nhơn hoặc Đồng Phó – Đồng Phó lúc đó như trạm lương thực cho vùng truyền giáo để tải lương thực về, hoặc trong những trường hợp bức thiết; các bà phải lên tận vùng Sơđang mua gạo, thóc v.v… Chúng ta chưa nói đến việc các bà phải giã gạo cho hàng trăm miệng ăn. Các bà tính việc tự cung tự cấp, lo trông rau, lúa, may vá sắm sửa cho một cơ sở phực tạp, nặng nề như trường Cuénot.
Mặc dù, sau khi dòng MTG cải tổ, tu viện MTG tại Kon Tum vẫn ở phụ lực với các cha thừa sai, đồng thời cũng thu nhận một số các em đệ tử năm 1930, cha sở Tân Hương – cha Alberty Hiền mở trường Têrêxa, các chị cũng đóng góp nhân lực đến năm 1932. Trong niên khóa nầy, trường Têrêxa giao chuyển cho MTG Gò Thị (Dòng canh tân).
2. Giai đoạn 1935-1945
Dòng MTG tại Kon Tum ngày càng phát triển và sẳn sàng phục vụ cho cơ sở mới. Vào năm 1935 trường Probatorium – Chủng viện thừa sai Kon tum khai giảng, quy tụ 80 chủng sinh. Đức Cha địa phận phân bổ một số chị em phụ trách cho chủng viện nầy. Tu viện đã phân đôi, một ở phục vụ trường Cuénot, nửa nữa phục vụ tại chủng viện. Chúng tôi xin ghi lại nguyên văn về nhà phước mới, theo tài liệu “Chức dịch thơ tín, địa phận Kon Tum” số 21, tháng 1/1935, trang 248-249 như sau:
“Nhà phước mới – Hơn 20 năm nay ở Kon Tum chỉ có một nhà phước MTG cũ ở gần trường Cuénot. Các dì, các chị ở đó toàn là người
“Đức Cha đã đặt dì Anna Nghệ làm bà nhứt nhà phước mới, còn nhà mẹ thì bà Maria Sổ làm bà nhứt mới nầy với 3 dì khác, cách 22 năm nay đã tỏ ra đức vâng lời và lòng sốt sắng mà lên đất Kon Tum trước hết. Lúc ấy đường sá chưa thông phải trèo đèo lội suối đi bộ chín mười ngày, thân phận đờn bà yếu đuối, mà cũng vui lòng đạp tuyết giày sương, ăn bờ ở bụi, ấy mới thật là vui lòng vác thánh giá.
“Từ ấy đến nay vẫn có một lòng lo việc Chúa: khi đau thì tế lễ mình, lúc mạnh thì dưng công việc, chẳng từ lao khổ, không phận chủng tộc hằng mong ước dưng cho Chúa nhiều linh hồn tốt lành sáng sủa, chẳng quản chi những cái xác đen đíu xấu xa.”
Cũng vào năm 1935-1936 họ Banmêthuột chưa có linh mục chánh xứ số giáo dân kinh trên 150 người. Trong khi chời đợi gởi linh mục đến phụ trách, có 2 dì thuộc MTG cũng tình nguyện đến đó để phục vụ, nhưng vì hoàn cảnh thời cuộc, các dì không thể lên BMT được.
Qua những năn tháng thăng trầm do thời cuộc: chiến tranh thế giới lần thứ I, rồi thế chiến thứ II ảnh hưởng rất nhiều đến địa phận Kon Tum: các lin mục thừa sai Pháp bị Nhựt bắt giải về Nha trang, các Dì vẫn ở lại điểm truyền giáo. Các dì hiển diên trên vùng Tây Nguyên khói lửa để sống trọn vẹn đời sống tận hiến với Chúa Kitô Thập giá:
“Ấy thánh giá bà vác đã cũ thật, nhưng cũ mà xem ra bà mộ mến hơn thánh giá mới có bề mát mẻ hơn” [12]
3. Dấu chỉ Nước Trời
Các chị nữ tu thuộc tu viện MTG tại Kon Tum năm 1913 chẳng những sống thật sự trọn vẹn cho Chúa Kitô thập giá trong lao động, trong phục vụ, trong cầu nguyên, mà còn là dấu chỉ Nước Trời. Các chị sống giữa người dân tộc “Không phận biệt chủng tộc, hằng mong ước dưng cho Chúa nhiều linh hồn tốt lành súng súa, chẳng quản chi những cái xác đen đíu xấu xa” [13]. Các bà cảm hóa được anh em người dân tộc nói chung, các thiếu nữ Bahnar nói riêng. Nhờ vậy, một số thiếu nữ dân tộc cũng như người kinh muốn tận thiến đời mình trong dòng MTG. Bề trên địa phận gởi các thiếu nữ nầy đến dòng MTG tại Kim Châu (Qui Nhơn) sau nầy tại Gò Thị để đào tạo một lớp nữ tu thích hợp cho môi trường tông đồ hơn.
a- Đây là hoa qủa của cuộc đời tận hiến, là dấu chỉ Nước Trời sau những năm tháng dày công và âm thầm gieo vãi hạt giống “ƠN GỌI”
“Ngày 22 out vừa rồi, Đức Giám mục Qui Nhơn đã làm lễ mặc áo cho các chị ở nhà tập Gò Thị. Trong những người ấy có chị Agnès Khiêm là người địa phận Kon Tum, em thầy Trần Công Thơ ở họ Tân Hương chị Khiêm vào tập tại nhà Phước Kim Châu từ năm 1922, trước khi lập nhà tập Gò Thị Bề trên đã cho ra học ở Huế 3 năm và đậu bằng tiểu học Pháp-Việt (Primaire) Tuy đến năm nay chị Khiêm mới mặc áo dòng vì còn nhỏ tuổi, Bề trên để cho học song chị là người vào nhà dòng nầy trường trong những người về địa phận Kon Tum lại trong nhà nầy mới có mình chị đậu bằng tiểu học Pháp – Việt mà thôi”.[14]
Ngoài chị Khiêm ra còn một số chị em khác thuộc địa phận Kon Tum, đặc biệt các chị dân tộc. Sau khi xây dựng xong cơ sở tại Gò Thị, đầu tháng 3/1924 [15] số chị em MTG tại Kim Châu chuyển về cơ sở mới tại Gò Thị. Vào năm 1932 nhân dịp cha Jannin đến Qui Nhơn để trình tông thư bổ nhiệm làm Giám mục Kon Tum, Ngài muốn đến Gò Thị để thăm nhà dòng, đặc biệt các chị nữ tu thuộc địa phận Kon Tum nhưng không thực hiện được vì đường giao thông khó khăn[16], trong số đó có các nữ tu Maria Mưk, chị Maria Niu và Anna Ngơ, cũng trong năm đó 2 chị trên lên phục vụ tại nhà trường Têrêxa Tân Hương [17]Gần 80 năm phục vụ trong cánh đồng truyền giáo Kon Tum, tu viện MTG tại Kon Tum từ 1913 đến nay vẫn là chứng từ của tình yêu tận hiến cho Chúa và GH với những con người âm thầm phục vụ bằng các công việc đơn sơ, nhưng vĩ đại vì dâng cho Chúa tất cả. Hiện nay, các chị vẫn dân lên Người lời kinh nguyện, sự hy sinh trong tuổi già nua bệnh tật, và trong những giây phút cô đơn, thầm lặng, tựa như một lời thổn thức của Đ.Kitô trên thập giá: Sao Chúa lại bỏ con, Đây là một bài ca phó thác tin tưởng vào Đấng sẽ đưa con người bị đày đọa vào vinh quang Thiên Quốc.
Để chúng ta có cái nhìn đầy đủ, chúng tôi xin ghi lại bảng kê sau đây về các Bà Nhứt và số nữ tu trong giai đoạn 1913-1935 và hiện tại
4. Bảng kê
Danh sách các bà Nhứt phụ trách tại Cuénot từ (1913-1961)
Năm | Tên các bà Nhứt |
1913 | Bà Kiểng |
Bà Maria Sổ | |
Bà Truyền | |
1961 | Bà Kỳ |
Bà Lợi |
Danh sách các bà nhứt phụ trách tại Chủng Viện
Năm | Tên các bà Nhứt |
1935 | Anna Nghệ |
Bà Phương |
Danh sách các bà lên Kon Tum
Năm | Tên các bà Nhứt | Còn sống | Qua đời |
Đợt I | Các bà Kiêng | Qua đời | |
(1913) | Bà Lưu | nt | |
Bà Anna Nghệ | nt | ||
Bà Lại | nt | ||
Đợt II | Bà Sở | nt | |
Bà Chỉ | nt | ||
Bà Thuận | nt | ||
Bà Thị | nt | ||
Bà Truyền | nt | ||
Bà Chuỗi | Còn sống | ||
Đợt III | Bà Bông | nt | |
Bà Âm | nt | ||
Bà Nguyễn Thị Sứ | 21/11/91 | ||
Bà Nguyễn Thị Ngọ | 1985 | ||
Bà Tâm |
Danh sách các bà hiện đang sống (1991) hiện đang ở 13 Nguyễn Huệ-Kon Tum
STT | Họ và tên | Năm sinh | Quê quán | Thời gian | Từ đến |
1 | Nguyễn Thị Phương | 1925 | Điện Bàn, Q.Nam | 1952 | Trà Kiệu |
2 | Nguyễn Thị Chuỗi | 1885 | Vạn Đình, Bình Định | 1913 | Vạn Đinh |
3 | Bùi Thị Kéo | 1920 | Xuân Phương, Bình Định | 1940 | Xuân Phương |
III- Thời kỳ chuyển biến canh tân từ thập niên 20 (thế kỷ XX).
Chúng tôi xin trình bày một số sự kiện có tính cách chuyển biến Dòng Mến Thánh, trong đó có trình bày cụ thể thời gian chuyển biến Hội Dòng theo đường hướng của Giáo Hội và mối tương quan với các Dì Phước trong các nhà Phước Viện trước kia.
Thật vây, ngày 13/5/1924, lớp đầu tiên Tập Viện Gò Thị được đón nhận, phần đông các tập sinh là các nữ tu từ các Phước Viện (MTG cũ) trong giáo phận.[18]
– Ngày 14/9/1926, lễ mặc tu phục cho các tập sinh.[19]
– Ngày 19/02/1929, lễ Khấn lần đầu.[20]
– Ngày 02/3/1929, Tòa thánh ký Sắc lệnh chuẩn y việc thành lập Dòng Mến Thánh Giá địa phận Qui Nhơn.[21]
– Ngày 14/9/1932, Đức cha Tardieu, Giám quản Tông tòa giáo phận Qui Nhơn, ban Chỉ thị lập dòng trong giáo phận.[22]
– Khi Hội Dòng MTG Gò Thị [23] được thành lập, một số nữ tu của các Phước Viện trong giáo phận chuyển sang dòng MTG Gò Thị, một số lớn nữ tu còn ở lại sinh hoạt độc lập tại các Phước Viện trong giáo phận Qui Nhơn: Phú Thương và Trà Kiệu (Quảng Nam); Cù Và (Quảng Ngãi); Gia Hựu và Làng Sông (Bình Định); Mằng Lăng (Phú Yên).
– Năm 1958, Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, Giám mục Tông tòa giáo phận Qui Nhơn và Mẹ Julien, Bề Dòng Mến Thánh Giá Gò Thị, hợp nhất 06 Phước Viện kể trên dưới sự điều hành của Bề trên Dòng Mến Thánh Giá Gò Thị. Trong cuộc hợp nhất nầy, đợt đầu tiên, vào ngày 28/02/1959, có 25 nữ tu và đợt thứ hai, ngày 28/8/1959, 15 nữ tu thuộc 06 Phước Viện được nhận vào nhà tập Mến Thánh Giá Gò Thị.[24]
IV- Dòng MTG Gò Thị – Qui Nhơn (1932-1940)
Ngày 11/01/1932 giáo phận Kon Tum được khai sinh tự lòng giáo phận Mẹ: Qui Nhơn. Tu viện MTG Gò Thị trước cũng như sau này canh tân luôn hướng lòng về vùng đất truyền giáo cho người dân tộc. Hơn nữa, nhiều nữ tu của Dòng lại là những ái nữ của tân giáo phận, được các nữ tu MTG đã gieo từ trước, nay trỗ bông đơm trái. Do đó, vào mùa xuân 1932, bà Maria de Lorette, Mẹ Cả của Tu viện đã đưa những nữ tu MTG Quy Nhơn một lần nữa lên Kon Tum với năng lực mới, với hướng đi mới.
A. Thời kỳ thành lập và xây dựng (1932-1935)
1. Điểm hoạt động
Trường Têrêxa giáo xứ Tân Hương, một trong những giáo xứ kỳ cựu nhất của giáo phận Kontum. Vào đầu năm 1932 một ngôi trường nằm trong một khu vườn cây ăn trái rộng rãi, mát mẻ, diện tích trên một mẫu tây nằm sát cạnh khuôn viên nhà thờ và nhà xứ được giao cho tu viện MTG Gò Thị đảm trách.
2. Những tông đồ đầu tiên
Trước nhu cầu cấp bách, lớn lao của giáo xứ Tân Hương cũng như toàn vùng, Hội Dòng đã gởi đến đây cùng một lúc 5 nữ tu tông đồ nhiệt tâm hăng lái: bà nhất Claire (Anna Lê Thị Đời, tạ thế ngày 15/04/1940) với sự cộng tác của bà Elisabet (Clara Ngô Thị Thành, hiện sống tại nhà Mẹ Quy Nhơn), đặc biệt để phục vụ tích cực và hữu hiệu, Hội dòng gởi hai chị nữ tu người dân tộc phụ lực trong nhóm tông đồ đầu tiên, đó là chị Véronique (Maria Mưk đã tạ thế 30/03/1962), chị Ursule (Maria Nui, tạ thế 20/03/1949) và sau nầy thêm chị Anne (Anna Ngơ hiện sống tại Gò Thị).
Năm 1933, bà Isabet (Maria Nguyễn Thị Đại, tạ thế 23/11/1947) được cử lên thay cho bà Claire, đồng thời nhà dòng gởi thêm chị Cécile (Agnès Nguyễn Thị Thoạt) để bổ sung cho cộng đoàn.
Năm 1934, Bà Elisabeth bị sốt rét phải về Kim Châu, bà Isabel cũng trở về nhà mẹ, bà Claire trở lại Tân Hương để đảm trách cộng đoàn. Cũng năm đó, bà Rose (Elisabeth Nguyễn Thị Thủy đang sống Gò Thị) được sai đến Kon Tum để dạy lớp nhất tại trường Têrêxa. Dẫu thế số nữ tu đầu tiên nầy không đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng.
3. Những sinh hoạt chính yếu
Hoạt động của MTG đa dạng vừa phụ trách trường, vừa phụ giúp cha sở trong giáo xứ.
1/ Hoạt động học đường
Niên khóa đầu tiên (1932-1933) của trường Têrêxa thật vất vả trường hoàn toàn miễn phí có kinh lẫn người dân tộc. Nhờ 3 nữ tu Bahnar việc dạy học có kết quả phần nào. Chẳng những dạy văn hóa mà các chị còn chăm sóc đời sống tinh thần, đạo đức và giáo lý cho các em.
Ngoài ra, các nữ tu cũng mở nhà nội trú tại đây, phần lớn là người dân tộc với tình thương và nhiệt tình của các nữ tu đã biến nội trú thành một gia đình vui tười đầm ấm.
Qua môi trường học đường, các nữ tu MTG đã thực hiện lý tưởng tông đồ các cụ thể bằng cách cổ võ thiên triệu linh mục và tu sĩ kinh cũng như người dân tộc. Các chị dân tộc có chị Augustine (Maria Têrêxa Kyinh Ngọc, nhập tu ngày 17/08/1932, tạ thế 18/04/1940) và chị Padentinne (Marguer te Maria kéo nhập tu 17/08/1932, khấn trọn 22/03/1952, tạ thế 30/03/1972).
2/ Hoạt động giáo xứ
Các chị dạy giáo lý cho dự tòng, lớp giáo lý xưng tội rước lễ, phụ trách ca đoàn, phục vụ nhà thờ, thăm bệnh nhân…
Nhìn chung, những năn xây dựng đầu tiên của cộng đoàn MTG Gò Thị tại Tân Hương đã mang lại nhiều thành quả vững chắc, đặt nền tảng và tạo đà tiến cho cho những năm kế tiếp.
B. Thời kỳ phát triển (1935-1940)
Sau 4 năm xây dựng, cộng đoàn MTG Gò Thị tại Tân Hương bắt đầu phát triển mạnh mẽ.
1. Nhân sự
Bà Nhất Calaire lên nữa ngã bệnh về nhà Mẹ điều trị, bà Rose lên thay và năm 1935. Năm 1936 chị Cécile từ giã thiệm sở, Hội dòng cử thêm 3 chị đến bổ sung: Chị Odile (Matta Nguyễn Thị Truất), chị Hélene (Maria Nguyễn Thị Nhi) và chị Candile (Maria Trần Thị Thơm) sáu chị em và bà Nhất Rose phải tận lực làm mới hết việc.
Năm 1938, chị Odile lâm bệnh về nàh Mẹ tỉnh dưỡng, chị Marie (Maria Dương Thị Thuận) và chị Angélique (Maria Lê Thị Tuyền) đến giúp cộng đoàn. Cộng đoàn nữ tu có 7 nữ tu hăng say hoạt động đến năm 1939-1940.
2. Hoạt động
1/. Hoạt động học đường
Số học sinh ngày càng gia tăng từ 200 đến 250 rồi 300 em. Cha Alberty phải xây dựng thêm trường sở để đáp ứng nhu cầu. Riêng các nữ tu dân tộc giúp học sinh người dân tộc học tập và những khóa thị yếu lược có kết quả mỹ mãn. Sau khi thi đậu, các em dân tộc thường được gởi đến trường Giuse do các nữ tu Vincent phụ trách, chuẩn bị cho các em dâng mình cho Chúa và phục vụ cho địa phận trong tu viện Ảnh Phép Lạ sau nầy.
2/. Dạy nghề
Ngoài việc trao dồi văn hóa, các nữ tu còn mỡ những lớp dạy nghề cho các em học sinh, nhất là cho các em nội trú, đặc biệt nâng cao mức sống cho các bà mẹ dân tộc tương lai. Sau khi bà Elisabeth ra đi, chị Ursule tiếp tục mở thêm nhiều lớn khác có tính cách nâng cao mặt xã hội cho các em dân tộc.
3/. Tông đồ giáo xứ
Các chị tiếp tục sứ mệnh chuyên biệt của mình: Dạy giáo lý, phụ trách ca đoàn, dạy dự tòng, trông coi thánh đường, đi thăm viếng gia đình, bệnh nhân, công tác bác ái, thánh hóa đời sống bằng lao động và cầu nguyện.
3. Thời kỳ ngưng hoạt động (1940-1963)
Trong niên khóa 1939-1940 nhiệm sử tại Tân Hương được giao lại cho cha sở họ Tân Hương. Các chị Vincent Bác ái tứ họ Phương Nghĩa đến giúp dạy văn hóa, sau đó họ trở về lại nhà dòng tại Phương Nghĩa. Từ đó đến 1963, MTG Gò Thị vắng bóng tại địa phận Kon Tum.
V. Giai đoạn 1963-2013
Sau hơn 20 năm vắng bóng tại Tân Hương, năm 1963, một số nữ tu MTG Gò Thị có cơ hội lại lên giáo phận Kon Tum tiếp tục hoạt động tại địa bàn Pleiku vào năm 1963
1/- Cơ sở Pleiku 44 Hùng Vương Thị xã PleiKu
a/ Lý do thành lập:
Vì nhu cầu cấp thiết, giáo phận Qui Nhơn lại yêu cầu tu viện TGM Gò Thị gởi người lên vùng Tây nguyên Pleiku trông nom 1 số cơ sở canh tác cho giáo phận.
b/ Nhân sự:
Đầu tiên, trách nhiệm nặng nề tại cơ sở Pleiku I đượng trao cho bà Emma Kính (Anna Nguyễn Thị Kính) và chị Được (thuộc nhà phướng cũ Phú Thượng). Đến năm 1967, bà Rufina Hậu (Maria Hậu) lên thay cho chị Được và có thêm Dì Linh phụ giúp.
Cũng năm đó, theo lời yêu cầu cùa cha Thomas Lê Thành Ánh, chánh xứ Họ Hiến Đạo Mẹ Julienne cho 2 chị Clothide (Agès Trần Thị Lương) và chị Gemma (Maria Nguyễn Thị Bông) lên sống tại pleiku I dạy học tại trường Văn Đức thuộc giáo xứ Hiếu Đạo.
Năm 1971-1972, nhiệm sở trường tiểu học Văn Đức chính thức trở thành công đoàn tự lập.
Ngoài công tác lao động, công đoàn MTG Pleiku I vẫn quan tâm các công tác tông đồ. Riêng năm 1973 cộng đoàn Pleiku I mở được một nhà nội trú đường mẫu giáo.
2/ Cơ sở Pleiku II: 281 Hai Bà Trưng, Pleiku
Trong ý hướng truyền giáo vùng dân tộc, năm 1971. Hội dòng quyết định mở một trung tâm đào tạo ơn thiên triệu tu sĩ tại giáo phận KT.
Vì thiếu nhân sự, bà nhất Kính đang trông nôm cơ sở Pleiku I, kiêm nhiệm Pleiku II. Để thực hiện ước muốn của Hội Dòng, Bà Emma Kính đã cho mở ngay tại đây 3 lớp mẫu giáo và nhờ các chị đang phục vụ tại Hiếu đạo đến dạy giúp. Trường trở thành chi nhánh của trường Văn Đức và quy tụ trên 100 em học sinh.
3/ Với biến cố 1975 Hội dòng đặt hướng đi cho toàn Dòng, phù hợp với GH trong thế giới ngày nay.
a/ Vì không thể đào tạo nhân sự tại Pleiku II, nên Hội dòng chuyển chương trình huấn luyện về cơ sở Pleiku I. Vì thế, Hội dòng tăng cường số nữ tu phục vụ tại đây lên 8 nữ tu, để giúp đỡ cho 20 học sinh.
b/ Hoạt động:
Để thích ứng với hướng đi mới trong một xã hội để cao con ngườn và giá trị lao động, cộng đoàn Pleiku I đã can đảm bước vào đời sống lao động, vốn là ý hướng đầu tiên của Dòng MTG tiên khởi, cũng như phục vụ tích cực, cộng tác với các giáo xứ tại các thị xã Pleiku.
Riêng cơ sở Pleiku II, bà nhất Scolastique và bà Paula vẫn tiếp tục bổn phận và đời sống cầu nguyện, lao động, hy sinh đi thăm viếng bệnh nhân, người già cả.
Với niềm tin yêu mãnh liệt, các nữ tu MTG Gò Thị hiện nay tại Pleiku: Bà Nhất Emma, bà Léontine (Martha Lê Thị Truyền), chị Maria Lê Thị Huê…, dù trong bất cứ trạng huống nào cũng luôn vui sống bà hết mình phục vụ Chúa và GH trong tinh thần linh đạo của Hội dòng MTG.
4/ Tu viện MTG cũ tại Kon Tum cũng như MTG Gò Thị (Qui nhơn) vẫn luôn sẵn sàng sống thân phận Thập giá Chúa Kitô và thực thi truyền giáo theo tinh thần của vị Giám mục sáng lập, những bước chân truyền giáo của Ngài. Các Nữ tu Mến Thánh Giá đang hiện diện, phục vụ đa dạng cho bệnh nhân, hướng dẫn đời sống nhân bản, giúp việc học vấn, mục vụ trong giáo xứ kinh cũng như anh em người dân tộc và gặt hái rất nhiều thành quả.
5/ Kỷ niệm 100 năm hiện diện và đóng góp công sức, lời cầu nguyện của chị em nữ tu Dòng Mến Thánh Giá trên vùng truyền giáo Kontum (1913 – 2013).
Khi Đức Giám mục giáo phận Qui-nhơn hợp nhất [25] các Dì Phước trong các Phước Viện với Hội Dòng Mến Thánh Giá Gò Thị rất có thể để một ranh giới tương đối nào đó còn chưa rõ nét đối với Nhà phước Trường Cuénot (Kontum)[26].Theo Dì Nguyễn Thị Phương cho biết có lần Đức Giám mục giáo phận Kontum gợi ý đề nghị Dì theo qui chế hưu, nhưng Dì xin ở lại Kontum. Cách đây một hai năm Mẹ Bề Trên Hội Dòng MTG Qui-nhơn cũng đã đề nghị [27] Dì về hưu dưỡng tại Nhà Mẹ của Hội Dòng như đã thống nhất vào thời kỳ các Giám mục Qui Nhơn trước kia, nhưng Dì Phương cũng đã xin ở lại Kontum và theo lối sông tu trì từ trước đến nay như đã quen.[28]
Hình ảnh của các Dì phước đầu tiên tại giáo phận Kontum cũng như thời gian suốt 100 năm (1913 -2013) của Dòng trong cầu nguyện, trong khổ hạnh âm thầm hy sinh vượt thắng mọi thử thách, như lời kêu mời mọi chị em MTG hồi tường lại CỘI NGUỒN của mình. Mừng 100 năm (1913 – 2013) quí Hội Dòng Mến Thánh Giá đã hiện diện và phục vụ tại giáo phận không biết mỏi mệt.
[1] Hiến chương Dòng MTG, xí nghiệp in Tổng hợp, Liksin, TP. Hồ Chí Minh 1990 trang 3.
[2] Lịch sử Dòng MTG chợ quán, Sài Gòn 1970 trang 15.
[3] Lịch sử Dòng MTG chợ quán, Sài Gòn 1970 trang 15.
[4] Lịch sử Dòng MTG chợ quán, Sài Gòn 1970 trang 16.
Xin xem thêm: Memoires Pour Servir à L’histoire Ecclesiastiques de la Mission de Cochinchine pour M.Vachet, A.M.E.Vol 729 trang 134
Xem thêm: Cha Vachet viết cho Bề trên chủng viện ME. A.M.E.Vol 734 trang 258, ngày 20 Oct.1672
[5] Xin xem: Adrien Launay, “Histoire de la Mission do Cochinchine 1658-1823 trong Documents histoirique I 1658-1728.
Địa danh của vùng đất phía tây Đông Đàng Trong (Trung Châu) nằm trong dãyTrường sơn được gọi nhiều tên khác nhau qua từng giai đoạn xã hội chính trị : Vùng Thượng, Cao Nguyên, Tây Nguyên, Bắc Tây Nguyên … Nhưng chúng có những địa giới khác nhau và dễ bị nhầm lẫn khi xử dụng từ ngữ những địa danh này.
[6] Adrien Launay “Histoire de la mission de Cochinchine 1658-1823 id trang 167
[7] JEAN THIÉBAUD, Thánh Giám Mục Thể 1802-1861, (bản dịch),
Xin xem thêm: Trích trong tập tài liệu “Giáo phận Qui nhơn. Hành Hương – Thăm viếng. Qui nhơn Lễ các Thánh 2012 », (lưu hành nội bộ), trang 63.
Thư của Đức Giám mục Cuénot Thể gởi cho em gái Ngài vào năm 1851có nhắc tới việc Ngài gởi một số Dì Phước (thuộc Dòng Mến Thánh Giá Đông Đàng Trong) lên phục vụ cho miền thượng cũng chưa xác định được nơi chốn chính xác các Dì đến phục vụ. Mặt khác, trong các tài liệu như “Les sauvages Bahnars” (Dân Làng Hồ) của cha Dourisboure Ân, “Mở Đạo Kontum” của cha Thiệt và cha Ban (năm 1933) cũng như những báo cáo của các Thừa sai tại đang phục vụ tại Vùng Truyền giáo Tây Nguyên cho người dân tộc không đề cập sự hiện diện của các Dì Phước Mến Thánh Giá trong giai đoạn đầu truyền giáo tại vùng này. Mãi đến năm 1913, mới có tài liệu đề cập đến sự hiện diện các Dì Phước tại vùng truyền giáo cho người thượng (vùng Kontum)
[8] Launay “histoire de la Mission de Tonkin I” trang 102-124
(Tam bách chu niên từ khi lập dòng MTT, Sài gòn 1970 trang 20)
[9] Adrien Launay “Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823″ id, tr.98
[10] Nội quy dòng chị em MTG Qui Nhơn 1975 tr.6
[11] Tên của các bà:” Bà Kiêng, bà Nghề, bà Lại, bà Lưu
[12] Theo văn mạch bà ở đây chỉ bà nhứt mới là Anna Nghệ, xem Id trang 249
[13] Xem sách “Chức dịch thơ tín địa phận Kon Tum số 21 tháng 01/1935 trang 249
[14] Xem sách “Chức dịch thơ tín, Id trang 345 bị chú trang sách nầy có ghi 2 lần trang 345 phần trích vừa rồi trang 345 sau)
[15] Xem “Kim Khánh 1929-1979, Dòng MTG Gò Thị Qui Nhơn” trang 39
[16] Xem Lễ Phong Giám mục của Đức Cha Jannin ngày 23-Juin 1933 tr.17
[17] Xem tài liệu về dòng “50năm ngày công đoàn MTG Qui Nhơn tại giáo phận Kon Tum 1932-1982” (lưu tại nhà Mẹ Qui Nhơn)
[18] – Kim Khánh Mến Thánh Giá Gò Thị – Qui Nhơn 1929-1979, trang 42.
– 333 năm thành lập MTG – 75 năm cải tổ Hội Dòng MTG Qui Nhơn, trang 42.
[19] Mémorial Qui Nhơn Sept. 1926, p.42.
[20] Mémorial Qui Nhơn Fev. – Mars 1929, p. 15-16.
[21] Nội qui Viện tu MTG địa phận Qui Nhơn, 1956, trang 9.
[22] Nội qui…,trang 11-13.
[23] Tên gọi đầu tiên của Hội Dòng MTG được canh tân là Dòng Mến Thánh Giá Gò Thị ( Nhà Mẹ tại Gò Thị). Năm 1965, Nhà Mẹ Gò Thị dời về Qui Nhơn và được gọi là Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn cho đến ngày nay. (X. Bản Thông tin địa phận Qui Nhơn số 49, Th.9/1966 tr.25).
[24] – Bản thông tin địa phận Qui Nhơn, số 9, trang 31.
– Kim Khánh Mến Thánh Giá Gò Thị – Qui Nhơn 1929-1979, trang 70.
[25] Năm 1958, Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, Giám mục Tông tòa giáo phận Qui Nhơn và Mẹ Julien, Bề Dòng Mến Thánh Giá Gò Thị, hợp nhất 06 Phước Viện kể trên dưới sự điều hành của Bề trên Dòng Mến Thánh Giá Gò Thị. Trong cuộc hợp nhất nầy, đợt đầu tiên, vào ngày 28/02/1959, có 25 nữ tu và đợt thứ hai, ngày 28/8/1959, 15 nữ tu thuộc 06 Phước Viện được nhận vào nhà tập Mến Thánh Giá Gò Thị.
[26] Thường gọi như vậy.
[27] Vào ngày 21.10.2013, Dì Phương đã cho linh mục viết bài này biết ý định xin ở lại Kontum của Dì.
[28] Chúng tôi đã trao đổi với Dì Phương về vấn đề này vào ngày 21.10.2013 tại nơi Dì đang ở (Nhà Thờ Kontum). Như vậy Dì theo thể cách nếp tu chưa cải tổ và mặc nhiên cách nào đó vẫn là thành viên của Hội Dòng Mến Thánh Qui-Nhơn .
(Lm. Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn, WGP.Kon Tum 24.10.2013)