Thật ra sau tổ phụ Abraham Thiên Chúa cũng đã hiện ra với tổ phụ Igiaác khi ông sống giữa Gơra và Bẹc Shêva và đào lại các giếng mà cha ông là tổ phụ Abraham đã đào nhưng bị người Philitinh lấp đi. Chương 26 sách Sáng Thế kể rằng ông Igiaác đã đào được hai giếng có nước mạch trong thung lũng nhưng dân chúng Gơra giành cho là giếng của họ. Ông đào giếng thứ ba và đặt tên là Rơkhôvốt và nói: “Vì giờ đây Chúa đã cho chúng ta được thênh thang và chúng ta sẽ sinh sôi trong đất này. Từ chỗ ấy ông lên Bẹc Shêva. Đêm ấy Chúa hiện ra với ông và phán: “Ta là Thiên Chúa của Abraham, cha ngưòi. Đừng sợ, Ta sẽ ở với ngươi. Vì Abraham tôi tớ của Ta, Ta sẽ chúc phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi ra nhiều”. Tại đây ông dựng bàn thờ và kêu cầu danh Chúa. Cũng tại đây ông cắm lều và các đầy tớ ông Igiaác đã khơi một cái giếng”.
Kể từ thời ngôn sứ Samuel trở đi Giavê Thiên Chúa không hiện ra nữa nhưng dùng các sứ giả của Ngài là các Sứ Thần và các ngôn sứ để thông truyền với con người. Chẳng hạn trong sách Tôbia Thiên Chúa sai Tổng lãnh thiên thần Raphael đến trợ giúp gia đình ông. Raphael có nghĩa là Thiên Chúa là bác sĩ, hay Thiên Chúa là thuốc. Ông Tôbít là người thuộc chi tộc Naftali bị đi đầy sang Ninive dưới thời vua Sanmanaxe. Ông đã là một loại quan quản lý của vua có nhiệm vụ mua sắm cho nhà vua tất cả những gì cần và hay sang Međi. Và ông đã gửi nơi ông Gabael là người bà con 300 ký bạc. Ông phục vụ vua Sanmanaxe cho tới khi nhà vua qua đời và vua Sennakherib lên ngôi. Ông Tôbít rất đạo đức và tuân giữ mọi lề luật của Chúa, hay giúp đỡ cô nhi qủa phụ, rộng tay bố thí cho các người đồng hương, cung cấp thực phẩm cho người đói khát, cho người trần truồng quần áo mặc và chôn cất các người đồng hương bị vua Sennakherib giết chết và quăng thây ra phía sau tường thành Ninivê. Ông bị tố cáo với vua và vua cho truy lùng để giết ông, vì thế ông trốn đi. Mọi gia tài sản nghiệp của ông bị nhà vua tịch thu. Nhưng sau đó nhà vua bị hai con trai ám sát và hoàng tử Exakhátđôn lên ngôn, lại dùng ông Akhica là cháu ông Tobít làm quan tài chánh quản trị trong toàn nước. Nhờ sự can thiệp của Akhica ông Tôbít trở về Ninive. Người ta trả lại cho ông bà Anna vợ ông và Tobia con trai ông. Ông vẫn có lòng bác ái và tiếp tục chôn cất người đồng hương bị giết. Hôm đó trời nóng ông nằm nghỉ dưới bức tường ở sân và bị phân chim nóng rơi vào khiến mù mắt. Bà Anna vợ ông phải đi dệt vải để nuôi sống gia đình. Ông Tôbít sực nhớ tới số bạc gửi ông Gabael nên sai Tobia đi lấy số bạc ấy. Chương 5 kể như sau: “
** Vậy cậu Tô-bi-a đi tìm một người thông thạo đường để cùng đi với cậu đến Mê-đi. Cậu ra đi và thấy thiên sứ Ra-pha-en đang đứng trước mặt cậu, nhưng cậu lại không biết đó là thiên sứ của Thiên Chúa. Cậu nói với thiên sứ: “Anh bạn trẻ, anh là người ở đâu? ” Thiên sứ đáp: “Tôi cũng là con cái Ít-ra-en, anh em của anh. Tôi đến đây để làm việc.” Cậu Tô-bi-a liền hỏi: “Anh có biết đường đến Mê-đi không? “Thiên sứ nói: “Có. Tôi đã nhiều lần đến đó, tôi thông thạo và thuộc hết các đường. Tôi thường hay đến Mê-đi và trọ nhà ông Ga-ba-ên, là người anh em của chúng tôi đang cư ngụ tại Ra-ghê xứ Mê-đi. Bình thường thì Ra-ghê cách xa Éc-ba-tan hai ngày đường, vì nằm ở miền núi.” Cậu Tô-bi-a nói: “Này anh bạn trẻ, anh hãy chờ tôi đi báo cho cha tôi hay đã, vì tôi cần có anh đi cùng với tôi, và tôi sẽ trả công cho anh.” Thiên sứ đáp: “Được, tôi sẽ chờ anh. Chỉ có điều là đừng đi lâu quá.” Cậu Tô-bi-a đi báo cho ông Tô-bít, cha cậu hay và nói: “Này con đã tìm ra một người cũng là con cái Ít-ra-en, anh em chúng ta rồi.” Cha cậu bảo: “Con ơi, con hãy kêu người ấy đến đây cho cha, để cha xem người ấy thuộc dòng dõi, chi tộc nào, và có đáng tin cậy để cùng đi với con không.” Tô-bi-a đi kêu người ấy và nói: “Anh bạn trẻ ơi! Cha tôi kêu anh đó.”
Ông Tô-bít nói: “Này người anh em! Gia tộc anh như thế nào, và thuộc chi tộc nào? Xin người anh em cho tôi biết.” Thiên sứ nói: “Chi tộc tôi can gì đến ông? ” Ông Tô-bít nói: “Này người anh em, tôi muốn biết sự thật: anh là con ai và danh tánh là gì? “Thiên sứ đáp: “Tôi là A-da-ri-a, con Kha-nan-gia đại nhân, trong hàng anh em của ông.” Ông Tô-bít nói: “Này người anh em, chúc anh mạnh khoẻ và được vạn an! Xin đừng phiền lòng, nếu như tôi đã muốn biết sự thật về gia tộc của anh. Hoá ra anh là người anh em họ hàng của tôi, thuộc giống dòng tôn quý và lương thiện. Tôi có biết hai ông Kha-nan-gia và Na-than, các con của Sơ-ma-gia đại nhân. Hai ông đã cùng đi với tôi đến Giê-ru-sa-lem thờ lạy Chúa và đã không rời xa chính lộ. Anh em của anh là người lương thiện; gốc gác anh tốt lành, vậy xin chúc mừng anh! ” Ông còn nói: “Tôi sẽ trả công cho anh mỗi ngày một quan tiền và sẽ đài thọ những gì anh cần dùng, cũng như tôi xử với con tôi vậy. Anh hãy đi với con tôi, rồi tôi sẽ tặng thù lao cho anh.” Thiên sứ nói: “Tôi sẽ đi với cậu ấy. Xin ông đừng sợ, chúng tôi ra đi mạnh khoẻ và sẽ trở về với ông mạnh khoẻ, vì đường đi rất an toàn.” Ông Tô-bít nói: “Xin Chúa chúc lành cho anh, người anh em ạ! ” Rồi ông gọi con trai đến và bảo: “Này con, hãy chuẩn bị hành lý và ra đi với người anh em của con. Xin Thiên Chúa là Đấng ngự trên trời gìn giữ hai anh em đi đường bình an, rồi đưa các con mạnh khoẻ về với cha. Xin thiên sứ của Người cùng đi để phù hộ hai anh em con! “
** Vậy là cả hai cùng đi, và đêm thứ nhất, họ qua đêm bên bờ sông Tích-ra. Chàng thanh niên xuống sông Tích-ra rửa chân, thì con cá lớn nhảy vọt lên khỏi mặt nước chực táp bàn chân cậu. Cậu la lên. Thiên sứ bảo cậu: “Hãy chộp lấy con cá và nắm cho chặt.” Cậu nắm chặt con cá và đem nó lên bờ. Thiên sứ bảo: “Mổ bụng cá ra, lấy mật, tim, gan và giữ nó bên mình, còn ruột thì quăng đi, vì mật, tim, gan của nó làm ra được thứ thuốc công hiệu.” Cậu Tô-bi-a mổ bụng cá lấy mật, tim, gan, nướng một phần con cá để ăn và dành ra một phần đem ướp muối. Cả hai người cùng đi với nhau cho đến khi gần tới Mê-đi. Bấy giờ, cậu Tô-bi-a hỏi thiên sứ: “Anh A-da-ri-a, có thứ thuốc gì trong tim, gan và mật con cá vậy? ” Thiên sứ trả lời: “Hãy lấy tim và gan cá đem um khói, trước mặt một người đàn ông hoặc đàn bà bị quỷ hay thần khí ác độc ám hại, thì sẽ tránh được mọi ám khí và từ này về sau không còn sợ ma quỷ và ác thần ở với người đó nữa. Còn mật, hãy đem xức lên mắt người bệnh, ngay nơi bị sẹo trắng, và thổi vào mắt, chỗ có sẹo, thì mắt sẽ được lành.
Thiến Sứ tiết lộ cho Tobia biết khi tới Ecbatan hai ngưòi phải trọ tại nhà ông Raguel. Ông này chỉ có một cô con gái tên la Sara. Trong tất cả mọi người Tobia là bà con gần nhất và được quyền cưới cô. Cô cũng là nguời khôn ngoan, can đảm, rất đệp và la người tôn quý. Thiên sứ sẽ nói chuyện với ông Raguel và sẽ xin cho Tobia cưới cô. Nhưng Tobia sợ hãi vì nghe nói cô đã có bẩy đời chống nhưng tất cả đều bị chết trong đêm tân hôn, vì ma quỷ giết họ. Thiên sứ khuyên Tobia đừng sợ, “nhưng khi động phòng hãy lấy một chút gan và tim cá đặt lên than trong lư hương; mùi hương sẽ toả ra, quỷ sẽ ngửi thấy và chạy trốn; nó sẽ không bao giờ xuất hiện quanh cô nữa. Trước khi gần gũi nhau cả hai hãy đứng lên cầu nguyện, xin Đức Chúa trên trời rủ lòng thương và ban ơn cứu độ cho các em.”
Mọi chuyện đã xảy ra như thiên sứ nói. Ông Raguel gọi Xa-ra, con gái ông. Cô đến bên ông; ông cầm lấy tay cô, trao cho Tô-bi-a và nói: “Con hãy đón nhận em con chiếu theo Lề Luật và phán quyết ghi trong sách Mô-sê dạy phải cho nó làm vợ của con. Hãy lấy nó và đưa nó an lành mạnh khoẻ về nhà cha con; xin Thiên Chúa trên trời ban cho chúng con được bình an! ” Ông gọi mẹ cô và bảo đem giấy tới rồi viết tờ hôn thú cam kết là đã gả cô cho cậu chiếu theo phán quyết của Luật Mô-sê.” Sau khi ăn tiệc người ta đưa đôi tân hôn lên phòng. Tô-bi-a nhớ lại lời của thiên sứ Ra-pha-en: cậu lấy trong túi ra gan cá cùng với tim, và đặt trên than của lư hương. Mùi cá đẩy lui quỷ, khiến nó chạy trốn về miền Thượng Ai-cập. Thiên sứ Ra-pha-en đến đó buộc chân và trói nó lại ngay tức khắc. Khi thân nhân đã ra khỏi phòng và đóng cửa lại, Tô-bi-a ngồi dậy, ra khỏi giường và nói với Xa-ra: “Đứng lên, em! Chúng ta hãy cầu nguyện, nài xin Đức Chúa để Người xót thương và ban ơn cứu độ cho chúng ta! ” Cầu nguyện xong họ đi ngủ. Trong khi đó ông Raguel và đầy tớ đi đào huyệt sẵn vì sợ Tobia cũng sẽ chết như bẩy người chồng trước của con gái. Nhưng khi biết cả hai còn sống mọi ngưởi cất tiếng chúc tụng Thiên Chúa và mở tiệc ăn mừng.
** Tobia xin Adaria đem lạc đã và đày tớ theo đi Raghê đến nhà ông Gabael trao cho ông văn tự viết tay để lấy lại số bạc ông Tobít đã gửi, Ông Gabael thanh toán mọi chuyện xong cũng đi ăn cưới Tobia. Sau khi mừng tiệc cưới 14 ngày, Tobia nài nỉ cha vợ để cho mình về. Ông Raguel trao Sara và phân nửa của cải cho con rể, hai ông bà dặn do con gái và chúc họ ra đi bình an. Khi tới gần Ninive thiên sứ và Tobia đi trước. Thiên sứ dặn Tobia “Tôi biết là mắt cha em sẽ mở ra. Hãy tra mật cá vào mắt ông. Thuốc sẽ làm cho các sẹo trắng teo lại và bay ra khỏi mắt ông. Cha em sẽ thấy lại được, sẽ nhìn thấy ánh sáng.” Tô-bi-a đi về phía ông, tay cầm mật cá; cậu thổi vào mắt ông. Cậu giữ chặt lấy ông và nói: “Thưa cha, xin cha cứ tin tưởng! ” Cậu bôi thuốc cho ông và để thuốc ngấm. Rồi cậu lấy hai tay bóc vẩy ra khỏi khoé mắt ông. Ông ôm choàng lấy cổ cậu, vừa khóc vừa nói: “Con ơi, cha đã thấy con! Con là ánh sáng cho đôi mắt cha! ” Ông chúc tụng Thiên Chúa rồi vui mừng ra cửa thành đón con dâu và tổ chức tiệc cuới linh đình. Mãn tiệc cười ông Tobít dặn con trả công cho người bạn đồng hành. Bấy giờ, thiên sứ kín đáo gọi hai cha con lại và nói: “Hãy chúc tụng Thiên Chúa và tuyên xưng Người trước toàn thể sinh linh, về những điều tốt lành Người đã làm cho cha con ông. Hãy chúc tụng và ca ngợi danh Người! Những việc Thiên Chúa đã làm, hãy long trọng tỏ cho mọi người biết. Đừng ngần ngại xưng tụng Người! Giữ kín bí mật của vua là điều tốt đẹp; nhưng công trình của Thiên Chúa, thì phải tỏ bày và long trọng xưng tụng. Hãy làm điều lành thì cha con ông sẽ không gặp điều dữ. “Cầu nguyện kèm theo đời sống chân thật, bố thí đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công; làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc. Việc bố thí cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội lỗi. Những người làm phúc bố thí sẽ được sống lâu. Những ai phạm tội ăn ở bất công là kẻ thù của chính mình.
“Tôi sẽ tỏ cho ông và con ông biết tất cả sự thật, không giấu giếm chi. Tôi đã tỏ cho cha con ông biết rồi và đã nói: Giữ kín bí mật của vua là điều tốt đẹp, nhưng công trình của Thiên Chúa thì phải bày tỏ để tôn vinh Người. Hãy biết rằng khi ông và cô Xa-ra cầu nguyện, chính tôi đã tiến dâng những lời cầu nguyện đó lên trước nhan vinh hiển của Đức Chúa, để xin Chúa nhớ đến hai người; tôi cũng làm như vậy khi ông chôn cất người chết. Và khi ông không ngại trỗi dậy, bỏ dỡ bữa ăn để đi chôn cất người chết, bấy giờ tôi được sai đến bên ông để thử thách ông. Thiên Chúa cũng sai tôi chữa lành cho ông và cô Xa-ra, con dâu ông. Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Đức Chúa.”
Hai cha con bàng hoàng sợ hãi, sấp mình xuống đất. Thiên sứ nói: “Đừng sợ! Bình an cho các ngươi! Hãy chúc tụng Thiên Chúa đến muôn đời! Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi không phải do lòng tốt của tôi, mà do ý muốn của Thiên Chúa. Vậy ngày ngày các ngươi hãy chúc tụng Thiên Chúa, hãy ngợi khen Người! Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thực ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy. Giờ đây, hãy chúc tụng Đức Chúa nơi trần gian, hãy xưng tụng Thiên Chúa. Này tôi lên cùng Đấng đã sai tôi. Hãy viết ra mọi điều đã xảy đến cho cha con ông.” Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa. Thế là họ chúc tụng và ngợi khen Thiên Chúa, xưng tụng Người vì những công trình hùng vĩ của Người, là làm cho họ được thấy một thiên sứ của Thiên Chúa!
TMH 499
(Linh Tiến Khải, RadioVaticana 16.01.2017)