Lc 13, 10-17: Phải thực thi bác ái ngày Sa-bát
Lời Chúa:
10 Ngày sa-bát kia, Đức Giê-su giảng dạy trong một hội đường.11 Ở đó, có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được.12 Trông thấy bà, Đức Giê-su gọi lại và bảo: “Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền! “13 Rồi Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa.
14 Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giê-su đã chữa bệnh vào ngày sa-bát. Ông lên tiếng nói với đám đông rằng: “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày sa-bát! “15 Chúa đáp: “Những kẻ đạo đức giả kia! Thế ngày sa-bát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước?16 Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sa-bát sao?”17 Nghe Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng vì mọi việc hiển hách Người đã thực hiện. (c 14-17)
Suy niệm:
Lời Chúa hôm nay nêu lên 2 vấn đề.
– Thứ nhất, nhân danh ý thức hệ:
Người ta nhân danh ngày sa-bát để tỏ ý không muốn Chúa Giê-su chữa bệnh cho người đàn bà: “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày sa-bát! ” (c 14)
Đức quốc xã nhân danh “dân tộc ưu tuyển” nên đã giết hàng triệu người Do Thái.
Xã hội nhân danh hạnh phúc nên đã cho phép phá thai, tiêu diệt hàng triệu trẻ em vô tội.
Chúng ta vịn lý nầy lẽ kia để không giúp đỡ một ai đó thì chúng ta đã cư xử thiếu tình thương.
– Thứ hai, nhân danh tình thương:
Ai nhân danh tình thương thì sẽ luôn làm điều tốt và hữu ích.
Tình thương chỉ trong sáng khi tình thương bat nguồn từ Thiên Chúa, nghĩa là khi chúng ta thật tình yêu mến Chúa, chúng ta mới nghĩ đúng và làm tốt.
Bài học: Hãy vì Chúa mà làm điều lành.
Sống đạo: Phong trào Phô-cô-la-rê (Focolare)
Năm 1943, cô Chi-a-ra Lu-bích (Chiara Lubich) đã khởi xướng phong trào Focolare với lý tưởng “Hiệp nhất tất cả mọi thành phần của Nhiệm Thể Chúa Kitô.”
Chiara Lubich lúc ấy là một cô gái trẻ, vừa tròn 18 tuổi. Tuy nhiên, cô đã có một đời sống nội tâm sâu xa, yêu thích sống gần Thiên Chúa. Một lần nọ, mẹ cô sai cô đi mua sữa cho em, Cô vui vẻ làm công việc với tinh thần vui tươi, hăng hái. Trên đường đi, cô cảm thấy dường như đã tìm được ơn gọi của mình là hoạt động bác ái giữa những người cùng khổ. Lúc đó, cô đang điều khiển một nhóm Công giáo Tiến hành. Sau chuyến đi dự khoá hội thảo tại Lô-rét-tô (Loretto) Chiara Lubich đã quyết tâm theo Chúa bằng cách sống ba lời khuyên Phúc Âm: Khiết tịnh, Khó nghèo và Tuân phục.
Thế chiến thứ hai bùng nổ, Chiara Lubich vẫn còn ở lại Tren-tô để phục vụ các nạn nhân chiến tranh. Tình yêu của cô đối với tha nhân đã quyến rũ nhiều thiếu nữ khác cùng sống lý tưởng Bác ái Hiệp nhất, thấy Chúa trong tha nhân, nhất là trong những người bị đời bỏ rơi và xua đuổi…Và nếp sống ấy đã vượt ra khỏi ranh giới thành phố Tren-tô.
Vào một ngày nọ, giữa năm 1948, một thanh niên 20 tuổi, chuyên viên điện, đến sửa điện tại nhà các cô. Nghe các cô nói về Thiên Chúa và về kinh nghiệm sống, anh thích thú và muốn nghe mãi. Lúc xong việc, thay vì nhận tiền công, anh ta lại xin được trở thành một thành viên của Focolare, vì nghe thấy một tiếng thiêng liêng gọi anh sống đời sống đó. Rồi một kỹ sư nữa cũng đến xin gia nhập. Thế là “Tổ
Ngày nay, phong trào đã bành trướng khắp thế giới. Năm 1977, chị Chiara Lubich được giải thưởng quốc tế Tắm-pồ-tần (Templeton) về tôn giáo trao tặng tại Luân đôn. Chị thường nói: “Chúng tôi lên tiếng để la lớn cho thế giới một lời: Thiên Chúa.”
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giê-su, ông trưởng hội đường nhân danh ngày sa-bát để ngăn Chúa Giê-su chữa bệnh, nước Đức nhân danh chủ nghĩa “dân tộc ưu tuyển” để rồi gây quá nhiều tai họa làm khổ con người. Xin Chúa giúp chúng con hiểu tình thương và sống tình thương, vì chỉ có tình thương mới đem lại hạnh phúc cho con người. Amen.
Lm. Mi Trầm