I. Trong Cựu Ước
A. ”Con người” đầu tiên trong Sáng Thế Ký
Sau khi dựng nên trời-đất, loài vật và mọi thứ khác, Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm nên con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta…” (Faisons l’homme à notre image, selon notre ressemblance…) Như vậy, chữ ”con người” vừa nêu là ”khái niệm” đầu tiên cho Adam.
B. Con người (l’homme: đàn ông) tức chồng là Adam
Sau đó, cũng theo Sáng Thế Ký, Thiên Chúa lại dùng chữ ”con người”, tức là riêng cho ”ngườithanh niên Adam” như sau: ”Ðấng Hằng Hữu là Thiên Chúa lấy xương sườn đã rút ra từ ”con người”, làm thành người đàn bà và dẫn nó đến với con người. Và con người nói: Lần này, đây là nàng từ xương tôi và thịt từ thịt tôi.” (L’Éternel Dieu forma une femme de la côte qu’il avait prise de l’homme, et il l’amena vers l’homme. Et l’homme dit: Voici cette fois celle qui est os de mes os et chair de ma chair!) Dù Adam có vợ bên mình, Kinh Thánh vẫn dùng chữ ”con người” cho ông ta: ”Con người đặt tên cho vợ là E-và vì bà là mẹ của mọi sinh linh.”
C. Con người là cả nam và nữ
Tuy nhiên, chữ ”con người: l’homme” được dùng cho cả hai phái qua các câu sau đây: ”Ngài trục xuất con người.”; ”Chúa dựng nên con người có nam có nữ…”(STK 3,4 và 5,2)
D. ”Con người: fils de l’homme; son of man” ở nơi khác trong Cựu Ước
Trong Cựu Ước, thành ngữ (expression, groupe de mots) ”con người” (con trai của con người) được dùng tới hơn 140 lần.
1.Là miêu duệ nối dòng ông Adam
Thiên Chúa gọi tiên tri Êdêkiel bằng thành ngữ ”con người” tới 93 lần, chẳng hạn Ngài phán với ông: “Con người hỡi, hãy đứng dậy vì Ta sắp nói với con.” (Fils de l’homme, tiens-toi sur tes pieds, et je te parlerai.) Theo văn mạch (contexte) trong Êdêkiel, chữ Pháp-Anh ”fils, son” có nghĩa là ”con trai” nối dòng của ”con người Adam”. Tiên tri Êdêkiel đại diện cho ”con người”, tức là ”nhân loại” mang thân phận phải chết vì ”nguyên tội: péché originel”, nhưng lại được Thiên Chúa đoái nhìn, ban ơn.
2.Là Đấng chấm dứt nỗi kinh hoàng bằng vương quyền của Ngài vào thời Cánh Chung
Trong lời của tiên tri Daniel 7,13-14, thành ngữ ”Con người” báo trước vương quyền của Chúa Giêsu được Cha Ngài trao cho những điều như tiên tri ấy kể sau đây: ”Tôi nhìn trong những thị kiến ban đêm, và đây, đến trên mây trời là ai đó giống như Con người; Ngài tiến về phía Ðấng Cao Niên và được dẫn tới trước nhan Đấng ấy. Ngài được (Ðấng ấy) trao cho quyền thống trị, vinh quang và vương triều; mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Ngài. Quyền thống trị của Ngài là quyền vĩnh cửu, không bao giờ qua đi; vương quốc của Ngài sẽ chẳng hề bị suy vong.”
Trong cuốn ”Giêsu Nadarét”, Giáo Hoàng Biển-đức XVI viết: ”Như thế, Con người không tượng trưng riêng cho một cá nhân, nhưng Ngài là biểu tượng của vương quốc trong đó thế giới đạt tới mục đích của mình.” (En tant que tel, le Fils de l’homme (de Daniel 7) ne symbolise pas une figure individuelle, mais il est la représentation du royaume dans lequel le monde parviendra à son but.)
II. Trong Tân Ước
A. Thành ngữ ”Con người” trong bốn Tin Mừng
a. Khi dùng thành ngữ ”Con người”, Chúa Giêsu muốn biểu lộ về Ngài bằng thành ngữ ấy ở ngôi thứ ba số ít, chứ Ngài không tự xưng: ”Ta là Con người.” Có khi Ngài cho biết Ngài là Đấng Messia như sau: ”Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người từ trời xuống.” (Gioan 3,13)
b. Khi nhập Thể trong lòng Trinh Nữ Maria và khi nhập thế, Chúa Giêsu là CON (FILS, SON) được Mẹ Maria sinh thành, có Dưỡng Phụ Giuse nên Ngài là ”Con người”, tức cũng là ”Con của Đavít” (Son of David) đã sống cả 1000 năm trước Ngài.
c. Tuy nhiên, theo Chương Trình Cứu Rỗi, Ngài là ”Con người” với nghĩa như sau: ”Vì Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để ai tin vào Con Một ấy sẽ không phải hư mất, mà đượcsốngđời đời:” (Gioan 3,16) Như vậy, khi được ban ”Con Một” thì đương nhiên ”con người nói chung” (l’humanité) có ”Con Một là củamình, và cho mình” như lời tuyên xưng trong kinh Tin Kính: ”Vìloài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi.” Thánh Ca cũng chứng minh điều vừa nêu: ”Còn tình yêu nào cao quý hơn là Tình Yêu: Người liều mạng sống vì người mình yêu?”
d. Ngoài ra, thành ngữ ”Con người” còn có nghĩa là Ngài tự hạ mình xuống, trở nên ”thấp hèn” để nêu gương khiêm nhượng cho ”người đời” như cách Ngài trả lời cho một số luật sỹ thế nầy: ”Con chồn thì có hang, còn chim trời thì có tổ; nhưng Con Người không có chỗ gối đầu.” (Les renards ont des tanières, et les oiseaux du ciel ont des nids; mais le Fils de l’homme n’a pas où reposer sa tête.) Do đó, Giáo Hội có viết lời kinh như sau: ”Thánh Giá là giường Chúa tôi nằm.”
B. Thành ngữ ”Con người” ngoài bốn Tin Mừng
Bốn Tin Mừng ghi lại thành ngữ ấy 80 lần. Nhưng, trong Công Đồ Tông Vụ 7,56, chỉ có một lần: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con người đứng bên hữu Thiên Chúa.”, trong thư gởi tín hữu Dothái 2,9: ”Con người đó, chính là Chúa Giêsu.” và hai lần trong Khải Huyền 1,13 và 14,14: ”Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con người mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng…Tôi nhìn: kìa, có đám mây trắng, và ngồi trên mây là ai đó giống như một Con Người, đầu đội triều thiên vàng và tay cầm liềm sắc bén.” (Je regardai, et voici, il y avait une nuée blanche, et sur la nuée était assis quelqu’un qui ressemblait à un Fils d’homme, ayant sur sa tête une couronne d’or, et dans sa main une faucille tranchante.) Đó là chưa kể nhiều lần đại từ ”Ngài” thay cho ”Con người”.
III. ”CON người” đã được Thiên Chúa Cha chứng thực
Theo Matthêô 17,5, trên núi Taborê, ông Phêrô nghe Lời chứng thực từ đám mây: “Đây là Con chí ái của Ta mà Ta sủng mộ, các ngươi hãy vâng nghe Ngài.” Như vậy, đức tin không đơn thuần là tin Thiên Chúa, mà phải tin Đấng-được-Cha-gởi-đến-thế-gian. Tin như thế mới là cụ thể, mới có thể lý hội (concevable: hiểu rõ ràng), mới thấm thía (saisir) Mầu Nhiệm Mạc Khải: ”Thiên Chúa làm người”!!! Nhìn ”Con người” bằng mắt thể lý, nhưng nhận ra ”Ngài” thì phải với ”nhãn quan Đức Tin” như lời xướng và thưa trong Thánh lễ: ”Sursum corda. Habemus ad Dominum.” (Hãy nâng tâm hồn lên. Chúng con đang hướng về Chúa.) ”Nghe” lời Chúa thì có tai, ai cũng ”nghe” được; nhưng ”vâng nghe” Lời Ngài mới là sống Đạo! Chính vì thế, trong Gioan 6, 26, đám người còn lại (sau khi đã ăn bánh do Chúa Giêsu làm phép lạ) được Ngài khai tâm thế này: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các người: Các người không tìm Ta vì các người đã thấy dấu lạ, nhưng vì các người đã ăn bánh no nê.Hãy ra sức đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực lưu lại cho sự sống đời đời và lương thực mà Con Người sẽ ban cho các người vì Thiên Chúa là Cha đã chứng thực về Con người ấy.” (Dịch theo bản thống nhất của Công Giáo và Tin Lành ở Đức Quốc.)
Vậy, xét cho cùng, đâu phải tự mình nghĩ ra, mà chính ”Chúa sai khiến cách nào đó” thì Philatô mới dẫn Chúa Giêsu ra trước đám đông (kết án Ngài) và tuyên bố: ”Người ấy đây! Ecce homo! Voici l’homme! Behold the man! Seht, da ist der Mensch! Ἴδε, (Ἰδού) ὁ ἄνθρωπος.” (Gioan 19,5) Rất tiếc là người Dothái, anh cả của Đức Tin, lại nghĩ rằng Giêsu là ”con người” xuất thân từ hạ giới, chứ không phải từ ”thượng giới” hay từ Cõi Trời bởi vì họ thấy Ngài cũng có cha mẹ là Giuse và Maria! Cho nên, dù chứng kiến bao phép lạ Ngài làm, họ vẫn xin Ngài cho thấy dấu lạ. Sau khi nghe Ngài nói về bánh đích thực do Thiên Chúa ban là bánh từ trời đem lại sự sống cho thế gian, họ liền nói: “Thưa ông, xin cho chúng tôi luôn mãi bánh ấy.” Chúa mới công khai cho họ biết rằng Ngài là bánh trường sinh từ trời như sau: ”Ai ăn thịt và uống máu Ta thì được sống đời đời và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết…Như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, và Ta sống nhờ Cha thế nào thì người ăn Ta cũng sẽ nhờ Ta mà được sống như vậy.” (Tóm tắt Gioan 6,32-59)
Hôm xưa, sau khi Chúa tắt hơi, đã chứng kiến nhiều điềm thiêng, dấu lạ như tối tăm trên toàn cõi, cảnh động đất, ông đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Chúa Giêsu đều quá sợ hãi và nói: “Đích thật ông này là Con Thiên Chúa.” Dù vậy, hôm nay, vẫn còn biết bao người Dothái không tin Giêsu là Con Thiên Chúa làm người!!!
IV. Bài học từ ”Con người”
A. ”Con người” là tất cả những ai sống kết hợp với Chúa Giêsu
Trong thư Galat 3,28, Thánh Phaolô dạy: ”Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh chị em đều là con cái Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Thật vậy, bất cứ ai trong anh chị em được thanh tẩy để thuộc về Chúa Kitô, đều mặc lấy Chúa Kitô. Không còn chuyện phân biệt Dothái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh chị em chỉ là một trong Chúa Kitô. Mà nếu anh chị em thuộc về Chúa Kitô thì anh chị em là dòng dõi ông Abraham, những người thừa kế theo lời hứa.”
B. Kitô hữu phải là ”Con người” cho mọi người
Kitô hữu là ”người mặc lấy Chúa Kitô”, tức là được xức Dầu để được sai đi làm ngôn sứ cho mọi người! Mang Hình Ảnh Chúa Cứu Thế, Kitô hữu phải suy gẫm về ”con rắn” được Môsê treo lên để Dân Chúa nhìn (nó) mà lành bệnh. Con rắn ấy là tiền trưng cho Chúa Giêsu như Lời Ngài phán trong Gioan 3,14 và 12,32: ”Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ được giương cao như thế để ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.”; ”Phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta.”
”Ta” ấy chính là ”Con người ở ngôi thứ ba” mà Chúa Giêsu đã phán về Ngài. Cho nên, Kitô hữu ”chúng ta” phải sống Đạo ”Tình Thương: Caritas” đối với mọi người.
VI. Lời kết
Đức Giáo Hoàng xác tín về ”Con người” như sau: ”Ngài biến chúng ta thành nhân loại mới.” (Il nous transforme en une humanité nouvelle.) Và, trong phần ”Từ Con người đến Adam mới” (Du Fils de l’homme au Nouvel Adam), Giáo Hoàng Biển-đức còn tóm tắt Thánh Thư ”1 Cor 15,42-49”: ”Trong Chúa Giêsu, sự phục sinh biểu lộ Adam mới.” (La résurrection manifeste en Jésus le nouvel Adam.)
Lời nhập Thể trong Cung Lòng Trinh Nữ để làm ”Con người”. Vậy, Trinh Nữ là Mẹ của ”Con người”. Cho nên Mẹ Maria là Bà Eva mới (Nouvelle Eve) cho ”con người nói chung”!!!
Đức Quốc, 13.10.2012
Đaminh Phan văn Phước
(Tháng Mân Côi của Mẹ Chúa Cứu Thế và ngày tưởng nhớ Mẹ hiện ra với ba trẻ ở Fatima.)
Kính mời quý Vị nghe Thánh Ca:
Tantum ergo Sacramentum – YouTube
Tantum Ergo – YouTube (Có chữ Latinh và lời dịch sang tiếng Anh.)
Tình Chúa Cao Vời – Phan Đình Tùng Lyric – YouTube
TINH YEU THIEN CHUA – YouTube