Tuy nhiên, thánh vịnh 78 chỉ giữ lại hai lúc của phụng vụ đó là việc xưng thú tội lỗi, giống như thánh vịnh 106; và diễn văn kỷ niệm, giống như thánh vịnh 105. Nhưng cần ghi nhận rằng hai thời điểm này được trộn lẫn vào nhau tới độ trình bầy một cái nhìn hiệp nhất: sự bất trung của quốc gia được tuyển chọn (lúc xưng thú) được nhìn trên khung nền sự toàn năng của Thiên Chúa không mỏi mệt, luôn luôn kiên nhẫn và yêu thương Israel. Hình thái và nội dung của thánh vịnh 78 cũng như của các thánh vịnh thuộc nhóm này cho thấy linh hứng hiển nhiên của trường phái đệ nhị luật, đến độ có người cho rằng tác giả của nó là một thầy Lêvi hay một tư tế thời vua Giosia, là một người thuộc phong trào cải cách – tức phong trào đệ nhị luật – muốn tái lập niềm tin tinh tuyền nơi Giavê trong quốc gia, bằng cách nhắc lại các thời gian đầu của lịch sử dân Israel, nghĩa là thời sống trong sa mạc, tràn đầy các biến cố. Trái lại có nhiều nhà chú giải khác nhận ra trong các câu 9 và 67 các điểm tranh luận chống lại người Samaria, là con cháu của các chi tộc miền trung bắc, nhấn mạnh trên việc lựa chọn chi tộc Giuđa và nhà Đavít (cc. 68-72), và trông thấy, đặc biệt trong phần kết luận, một ảnh hưởng nào đó của sản xuất lịch sử-thần học thời hậu đi đầy, được đại diện bởi trường phái sử biên, có tư tưởng chính là việc tuyển chọn nhà Đavít. Như vậy mục đích đầu tiên của thánh vịnh 78 là khắc ghi sâu đậm nơi tâm trí những người tham dự phụng vụ bổn phận ghi nhớ các biến cố quá khứ, là các điềm thiêng dấu lạ Thiên Chúa đã làm cho Israel cũng như các bất trung của cha ông, để họ biết lượng định đúng đắn giá trị các kỳ công ấy của Thiên Chúa, tránh xa các bất trung của cha ông, và trung thành với giao ước đã ký kết với Thiên Chúa.
Thánh vịnh gồm phần mở đầu, các câu 2-11; các việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm trong sa mạc, các câu 12-31; sự bất trung của thế hệ cha ông và lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với họ, các câu 32-41; từ các việc kỳ diệu Thiên Chúa thực hiện bên Ai Cập cho tới lúc chiếm được Đất Hưá, các câu 42-52; sự bất trung của dân Chúa và việc Thiên Chúa bỏ rơi dân Israel thời các Thủ Lãnh, các câu 56-64; việc thức tỉnh ơn huệ của Thiên Chúa với sự tuyển chọn vua Đavít, các câu 65-72.
Thánh vịnh 78 bắt đầu vớimột dẫn nhập dài có cấu trúc. Khởi đầu là lời mời gọi có sắc thái khôn ngoan, hai câu 1-2; tiếp đến là đề tài và việc nhắc lại truyền thống được truyền tụng từ đời cha sang đời con, kể lại các cử chỉ cứu độ của Giavê, truyền thống được chính Giavê ra lệnh, các câu 3-6; sau cùng là mục đích: khi biết quý chuộng các kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện và thực thi các điều luật và giáo huấn của Ngài, các thế hệ tương lai không bắt chước lối sống bất trung của cha ông họ, các câu 7-8.10-11. Lời mở đầu thánh vịnh rất giống với lời kêu gọi tác giả thánh vịnh 49 hướng tới mọi dân tộc trong phần đầu bài học khôn ngoan của ông. Nhưng toàn phần mở đầu này của thánh vịnh có các điểm tiếp cận văn chương cũng như đề tài của phần dẫn nhập thánh ca đệ nhị luật của ông Môshê trong chương 32,1-6 sách Đệ Nhị Luật.
“Dân tôi hỡi, này nghe tôi dạy bảo, lắng tai đón nhận lời lẽ miệng tôi.
Mở miệng ra, tôi sẽ nói đôi lời huấn dụ, công bố điều huyền bí thuở xa xưa. Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Giavê, với những kỳ công Chúa đã làm. Người đã ban huấn lệnh cho nhà Gia-cóp, đặt ra lề luật cho Ít-ra-en, dạy tổ tiên chúng tôi truyền lại cho con cháu các cụ được tường, hầu thế hệ tương lai kẻ hậu sinh cũng biết, rồi mai ngày đến lượt kể cho con cháu mình. Như vậy, chúng sẽ đặt niềm tin vào Thiên Chúa, không lãng quên những việc Chúa làm và tuân giữ lệnh Người truyền dạy: Đừng như thể cha ông, nòi ngoan cố phản loạn, nòi tâm địa thất thường, dạ bất trung cùng Chúa. Người chi tộc Ép-ra-im rành nghề cung nỏngày giao chiến đành phải tháo lui; họ không giữ giao ước với Chúa Trời, và chẳng chịu sống theo luật Chúa;đã quên đi những việc Người làm, những kỳ công Người đã cho chứng kiến.”
“Ôi dân ta hỡi”: kiểu nói này rất thông thường trên miệng Giavê, hiển nhiên là tác giả tự coi mình như kẻ đại diện Ngài. Trong văn thể khôn ngoan người được mời lắng nghe được gọi với một giọng cha chú là “con ơi”.
“Giáo huấn của Ta”: tôrati là từ ám chỉ Lề Luật của Giavê, nhất là trong nền văn chương ngôn sứ (Is 51,7; Gr 9,12 vv.) Sách Torah là sách Luật của dân Do thái. Trong truyền thống khôn ngoan từ “tôrati” ám chỉ lời cảnh cáo hay giáo huấn của người khôn ngoan (Cn 3,1; 4,2).
“Các dụ ngôn”: Mashal trong tiếng Do thái là từ vựng của nền văn chươngkhôn ngoan. Nó ám chỉ một câu nói bí nhiệm dấu ẩn đối với con mắt của người hời hợt hay không chú ý tới một sự thật quan trọng, cần phải đặc biệt lưu tâm mới có thể khám phá ra. Thánh sử Mátthêu đã ám chỉ từ này, khi đề cập tới sự kiện Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà giảng dậy dân chúng (Mt 13,34-35). “Những điều kín ẩn của thời xa xưa”: trình bầy đề tài tổng quát của thánh vịnh, tập trung vào thuở ban đầu của lịch sử Israel và tương quan bí nhiệm giữa các bất trung của thế hệ cha ông và lòng nhân lành kiên trì của Thiên Chúa trong khung cảnh lịch sử cứu độ.
“Những gì chúng con đã nghe và đã học biết”: qua đó tác giả loan báo ý niệm truyền thống với các từ vựng chính xác hơn, truyền thống này là nền tảng sự mạc khải của Thiên Chúa, xưa cũng như nay. Đó là điều đã được tác giả thánh vịnh 44 nêu rõ: “Lạy Thiên Chúa, tai chúng con đã từng được nghe ruyện cha ông vẫn thường kể lại vềcông trình Chúa đã làm nên
thời các cụ thuở xa xưa ấy” (Tv 44,2). Tác giả sách Đệ Nhị Luật cũng khuyên dân Do thái trong chương 32 như sau: “Hãy nhớ lại những ngày xưa tháng cũ, và ngẫm xem từng thế hệ qua rồi. Cứ hỏi cha ngươi là người sẽ dạy, thỉnh bậc lão thành, họ sẽ nói cho nghe.” (Đnl 32,7).
“Chúng con sẽ kể lại cho thế hệ tương lại các lời chúc tụng Giavê và quyền năng của Ngài”: đây là lần thứ hai tác giả cho thấy đề tài và tương quan của nó với truyền thống trong khiá cạnh cửhành của loại thánh thi. Chính khiá cạnh này giúp phân biệt sáng tác thi ca ở đây với loại giáo huấn của nền văn chương khôn ngoan. Đây cũng đã là tâm tình của tác giả thánh vịnh 145: “Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng.
Người cao cả khôn dò khôn thấu. Đời nọ tới đời kia, thiên hạ đề cao sự nghiệp Chúa và truyền tụng những chiến công của Ngài,
tuyên bố Ngài oai phong vinh hiển, kể lại rằng: Ngài thực hiện những kỳ công,bảo cho nhau: sức mạnh Ngài đáng sợ, loan truyền rằng: Ngài cao cả lắm thay!” (Tv 145,2-6)
“Ngài đã thiết lập một chứng tá tại Giacóp và đặt một luật lệ tại Israel”: việc tưởng niệm các kỳ công của Chúa và ghi nhớ nó được truyền tụng cho các thế hệ tương lai nhằm khơi dậy nơi họ sự tin tưởng nơi Thiên Chúa và việc trung thành tuân giữ các điều luật của Ngài là một lệnh truyền cho Israel, một quy tắc của Thiên Chúa nhà Giacóp, một chứng tá cho nhà Giuse, như viết trong thánh vịnh 85: “Đó là luật Ít-ra-en phải cứ, Thiên Chúa nhà Gia-cóp đã phán truyền. Chỉ thị này, nhà Giu-se đã nhận khi bỏ miền Ai-cập ra đi.” (Tv 81,5-6). Việc nhớ lại bổn phận ấy là một trong các điểm sơ khởi cho diễn văn tưởng niệm của phụng vụ lòng trung thành giavít. Ở đây từ tôrah có nghĩa là sắc lệnh của Thiên Chúa. Đây cũng là điều ông Môshê đã căn dặn dân Israel như ghi trong chương 6 sách Đệ Nhị Luật: “Hãy yêu mến Giavê, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào lòng. Anh (em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy” (Đnl 6,5-7).
“Đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa”: câu trả lởi của Israel đối với sự ân cần lo lắng của Thiên Chúa được tỏ lộ ra qua việc tuân giữ các điều luật của Chúa, là đề tài thường gặp trong các khích lệ của truờng phái đệ nhị luật: “Trước mắt chúng ta, Giavê đã thực hiện những điềm thiêng dấu lạ lớn lao và khủng khiếp, phạt Ai-cập, phạt Pha-ra-ô và tất cả triều đình vua ấy. Còn chúng ta, Người đã đưa ra khỏi đó, để dẫn chúng ta vào và ban cho chúng ta đất Người đã thề hứa với cha ông chúng ta. Giavê đã truyền cho chúng ta đem ra thực hành tất cả những thánh chỉ này và kính sợ Giavê, Thiên Chúa chúng ta, để chúng ta được hạnh phúc mọi ngày và để Người cho chúng ta được sống, như ngày hôm nay. Chúng ta sẽ là người công chính, nếu chúng ta lo đem ra thực hành tất cả mệnh lệnh này trước nhan Giavê, Thiên Chúa chúng ta, như Người đã truyền cho chúng ta.” (Đnl 6,22-25).
“Và ước chi chúng đừng như cha ông chúng”: đây là dấu chỉ thứ ba cho thấy đề tài của thánh vịnh 78: sự bất trung của thế hệ cha ông người Do thái đối với Thiên Chúa, cũng như việc không tuân giữ các lề luật của Ngài. Các thế hệ đến sau đừng có bắt chước gương sống phản bội đó của người xưa. Cùng đề tài này đã được nhắc tới trong bài thánh thi của ông Môshê như viết trong sách Đệ Nhị Luật chương 32: “Những đứa con mà Chúa đã sinh ra không tì ố lại lỗi đạo với Người, ôi nòi giống lưu manh tà vạy! Hỡi dân tộc ngu si khờ dại, ngươi đáp đền ơn Giavê vậy sao?
Há chính Người chẳng phải cha ngươi, Đấng dựng nên ngươi, Đấng tạo thành, củng cố?” (Đnl 32, 5-6).
“Thế hệ ngoan cố phản loạn”: sôrer umôreh trong tiếng Do thái là hai tính từ miêu tả dân Do thái cứng đầu cứng cổ, lòng chai dạ đá, giống như kiểu nói trong chương 21 sách Đệ Nhị Luật: “Khi có đứa con ngỗ nghịch và bất trị, không nghe lời cha mẹ, cha mẹ có sửa dạy, nó cũng chẳng chịu nghe…” (Đnl 21,18.20).
Đó cũng là điều miêu tả trong chương 32 cùng sách: “Những đứa con mà Chúa đã sinh ra không tì ố lại lỗi đạo với Người, ôi nòi giống lưu manh tà vạy!” (Đnl 32,5). Xem ra đây là một từ pháp lý dùng để miêu tả đứa con ngỗ nghịch, cứng đầu cứng cổ, không vâng lời cha mẹ nên họ phải mang ra cho các bô lão xét xử và bị ném đá cho chết. Trong các Phúc Âm Chúa Giêsu cũng nhiều lần gọi dân Do thái là “nòi giống bất trung” (Mt 12,39).
Câu 9 bẻ gẫy diễn văn bị các nhà chú giải coi là được thêm vào sau này hay là một di dời của câu 57, có ý diễn tả trước ở đây lý do tranh luận chống Samaria của phần cuối thánh vịnh, câu 67.
“Chúng không tuân giữ giao ước và khước từ bước đi trong luật lệ Ngài”: berítvà tôrah là hai từ quy chiếu truyền thống Sinai, từ tôrah được lập lại ba lần chắc chắn ám chỉ Luật Lệ Giavê Thiên Chúa đã ban cho dân Do thái qua trung gian ông Môshê tại núi Sinai. Trong truyền thống Đệ Nhị Luật, luật lệ đó trở thành một việc trình bầy và là một soạn thảo điều lệ của lịch sử cứu độ, hướng tới thế hệ hiện tại cũng như thế hệ tương lai. Việc ký kết giao ước ấy được làm tại chân núi Sinai và được đi kèm bởi ơn và việc chấp nhận Luật Lệ Thiên Chúa ban cho dân Ngài. Nó là một viên đá mốc đánh dấu có tầm quan trọng định đoạt trong lịch sử của dân Israel.
TV 78 A
(Linh Tiến Khải, RadioVaticana 09.03.2017)