Dấu hiệu thứ nhất:
Không còn cố gắng. Có nghĩa là một người không có ước muốn thay đổi hiện trạng, không có kỳ vọng gì cho tương lai tốt đẹp hơn. Tương tự thế này: “Các sai lầm của tôi là vĩnh cửu; đó là con đường của tôi. Tôi không thể có các đức tính tốt; tôi không phải dạng người tốt đó.” Vắng bóng sự cố gắng khiến một người như sa vào mối tội đầu thứ bảy là lười biếng.
Dấu hiệu thứ hai:
Không còn lòng trắc ẩn. Một trái tim lạnh lẽo trong sự hiện diện của tội lỗi và đau đớn. Trong tội lỗi, người ta không còn bảo vệ quyền uy và phẩm giá của Thiên Chúa; không còn buồn vì việc các linh hồn hư mất. Trong đau đớn, người ta không còn cảm thương những người đau khổ nữa. Một điều đơn thuần là không còn sự cảm động nơi con người, lý trí và trái tim nữa.
Theo Thánh Augustinô, thiếu lòng thương xót chính là thiếu niềm hy vọng.
Dấu hiệu thứ ba:
Không còn học hỏi. Đó là một sự từ chối bài học về sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi chúng ta. Nếu ta yêu mến Chúa, ta sẽ luôn xin “Xin cho con biết.” Hãy nhớ Chúa Giêsu đã nói “Thầy là con đường, sự thật và sự sống.” Không muốn học hỏi nữa cho thấy một sự thiếu khiêm nhu, sự không sẵn sàng lắng nghe và học biết sự thật về Thiên Chúa.
Dấu hiệu thứ tư:
Không còn ăn năn. Đó là khi một người phạm tội mà không thấy áy náy, hối tiếc hay xấu hổ. Một nên văn hoá đề cao tự trọng hơn ăn năn thì khó có thể phát xuất những vị Thánh. Giống như linh hồn, một nền văn hoá không biết ăn năn sẽ khó sản sinh hoa trái hay tương lai tốt đẹp.
Đọc các dấu hiệu này, chúng ta dễ có khuynh hướng bị cám dỗ gán nó cho một người hay một số người nào đó. Hãy chống lại cám dỗ đó, ngược lại tự hỏi như các Tông đồ đã làm: “Có phải con không, lạy Chúa?” (Mt 26,22)
Hãy thử xem xét lương tâm chính mình, và hoạch định một kế hoạch để cải tổ đời sống. Nếu ta không muốn thú nhận rằng cái chết tinh thần đang gây đau đớn cho chúng ta, chúng ta sẽ thành ra giống như Ladarô không muốn ra khỏi mộ, chỉ muốn chết vùi trong đó mãi, vì ở ngoài có nhiều điều phải làm quá. Xin Chúa giữ chúng ta khỏi những điều tệ như vậy.
Theo cha Robert MacTeigue, SJ
Aleteia
Gioakim Nguyễn lược dịch