Lý do thứ nhất: Trong khi theo Kinh Thánh thì trước hết Thiên Chúa đã dựng nên trái đất và tiếp đến mới dựng nên các tinh tú, khoa học tân tiến ngày nay về vũ trụ lại cho rằng trái đất là một trong số các hành tinhđược hình thành về sau này, kết quả của một cuộc nổ tung vĩ đại (big Bang) trong vũ trụ trên dưới 14 tỷ năm về trước.
Lý do thứ hai: Trong khi theo Kinh Thánh thì trước khi dựng nên con người, Thiên Chúa đã dựng nên các thứ thú vật và những cây cỏ xanh tươi làm lương thực cho chúng, một hình ảnh đầy hiền hoà của Vườn Địa đàng, thuyết tiến hoá lại chứng minh rằng trước khi có sự hiện hữu của con người trên trái đất thì đã có những dã thú ăn thịt rất hung dữ, chứ không chỉ gặm cỏ cách hiền hoà mà thôi.
Ngoài hai lý do đối kháng trên đây, còn một lý do khác nữa, đó là: Theo sự trình thuật của sách Sáng Thế Ký thì vũ trụ được dựng nên trước khi xảy ra sự sa ngã phạm tội của ông Adong và bà Evà, nhưng theo ý kiến khoa vũ trụ học và thuyết tiến hoá thì sự sa ngã phạm tội của ông Adong xảy ra trước khi có vũ trụ, tức vũ trụ chúng ta sống.
Thật ra, sự kiện con người bị trục xuất ra khỏi Vườn Địa đàng không có nghĩa là Thiên Chúa đã dựng nên một vũ trụ thứ hai như nơi đày ải đầy khổ cực, thay thế cho vũ trụ thứ nhất đã bị huỷ hoại do tội nguyên tổ gây ra, và trong vũ trụ thứ hai ấy con người phải sống cuộc sống đầy gian lao vất vả sau khi đã phạm tội và vị trục xuất khỏi Vườn Điạ đàng. Nhưng sự thật là Vườn Địa đàng bị khoá lại và thay vào đó là một thế giới đã trở nên hư hỏng do tội lỗi gây nên.
Thiên Chúa Tạo Hoá không dựng nên hai vũ trụ
Như vậy, theo Kinh Thánh, qua sự sa ngã phạm tội của ông Adong, các tương quan trong vũ trụ và trong lịch sử tạo dựng của cuộc sống trên trái đất đã hoàn toàn bị đảo lộn và chính chúng là đối tượng nghiên cứu của khoa học như khoa vũ trụ và thuyết tiến hoá. Nói cách khác, chính do tội con người gây ra, trái đất đã bị nguyền rủa và đã bị thay đổi từ nền tảng: đất đai mất hết màu mỡ và trở nên gai góc, khô cằn, và vì thế, con người phải đổ mồ hôi nước mắt mới kiếm được của ăn hằng ngày và sau cùng lại phải đón nhận cái chết như hậu quả tất yếu (x. St 3,17-19). Điều ấy muốn khẳng định rõ ràng là qua sựtrình bày này về sự thay đổi của vũ trụ, Kinh Thánh chỉ muốn nói đến hậu quảtrực tiếp của tội lỗi đã làm cho những điều kiện sống của con người trở nên vất vả, khổ cực, chứ xét về toàn diện, các điều kiện sống đó không thể tách biệt con người ra khỏi vũ trụ, hay nói đúng hơn, Thiên Chúa đã không dựng nên một vũtrụ mới đầy khổ ải, đau thương và cằn cỗi để đày đoạ và phạt tội con người. Nếu bây giờ những thay đổi của vũ trụ xét theo toàn thể đã trở thành đối tượng của thuyết tiến hoá, thì không có gì là đi ngược lại lịch sử sáng tạo của Kinh Thánh. Và cũng chính hậu quả của tội lỗi gây ra, nên không chỉ đất đai trở nên gai góc và khô cằn, khiến cho con người phải vất vả cực nhọc mới kiếm được củaăn nuôi thân, nhưng cả các loài vật cũng phải tranh giành, ăn thịt lẫn nhau mới mong tồn tại. Qua đó, người ta thấy rằng giữa lịch sử sáng tạo và thuyết tiến hoá không có gì mâu thuẫn nhau. Chỉ có khác nhau duy nhất ở chỗ: Theo Kinh Thánh thì tất cả mọi tạo vật là do công trình sáng tạo của Thiên Chúa, còn theo khoa học thì tất cả mọi sự là hậu quả của một sự phát triển tự nhiên.
Nói một cách tổng quát, tư tưởng nguyên thuỷ về cây gia phả được coi là “lý thuyết về chủng tộc”. Nhưng một câu hỏi lại được đặt ra là làm thế nào người ta có thể ghép chung các loài bò sát, các loại chim chóc, các loại cá… hoàn toàn khác nhau, cùng theo một cách thức phát sinh giống nhau? Vào năm 1866, Ernst Haeckel, nhà sinh vật học người Đức, đã bỏ ngoài mọi do dự và bất đồng ý kiến trong dư luận và đã cho công bố lý thuyết về cây gia phả (Stammbaum).
Ngày nay, lý thuyết về phổ hệ hay tộc hệ (Genealogie) của các loại động vật đã bị loại bỏ. Qua những cuộc khai quật, người ta đã tìm thấy được những dấu tích thuộc cổ sinh vật học giúp khám phá ra rằng, các cơthể sinh vật được phát sinh, nảy nở và chết đi. Chính trong quá trình ấy, cơthể các sinh vật luôn luôn phát triển và hoàn thiện theo những cấp bậc cao hơn và tiến mãi cho tới khi thành con người. Trong đó, giữa những cơ thể sinh vật khác nhau có những tính chất tương đồng (Homologien) thuộc giải phẫu học, thuộc sinh lý và trong các sinh hoạt nhất định, khiến người ta có thể phân biệt được các nhóm sinh vật có liên hệ gần gũi hay xa biệt nhau.
Chính điều này đã làm nảy sinh ý kiến mới khác cho rằng trên mặt đất đã xảy ra một sự tiến hoá nội tại, tức mọi sinh vật tự phát triển, theo những định luật tự nhiên, và qua đó tư tưởng về một Đấng Tạo Hoá hoàn toàn không có chỗ đứng. Dĩ nhiên, người ta cũng đừng vội quên rằng đây mới chỉ là một ý kiến mang tính cách loại suy mà thôi. Vâng, ở đây nguyên nhân mới chỉ được cắt nghĩa theo hiệu quả mà thôi, trong khi một định luật chỉ có thể kiểm tra được một cách thực nghiệm, nếu qua những dẫn chứng của nguyên nhân, hiệu quả được dự đoán cũng thực sự được hiện thực.
Với tính cách là nguyên nhân, người ta phỏng đoán được sự ngẫu biến (Mutation) và đào thải (Selection). Nhưng người ta cần phải hiểu những quá trình diễn biến ấy như thế nào? Qua quá trình “ngẫu biến”, người ta hiểu là những thay đổi của những cái được gọi là phân tử di truyền (Gène), quađó những hình thức sinh vật học mới được phát sinh, trong khi đó, sự đào thải lại quyết định hướng đi từ những tế bào phôi thai tiến tới thành người. Nhưng bây giờ lại có một sự ngẫu biến không thể cắt nghĩa theo khoa học được, một sựngẫu biến không phải là một định luật có thể định nghĩa được. Nói cách khác, có những thay đổi của phân tử di truyền dẫn tới những hình thức mới mẻ một cách theo kiểu vi trùng học, mà theo khoa học thì không thể giải thích được.
Còn bây giờ, chúng ta thử tìm hiểu những điều có liên quan tới sự đào thải. Những diễn biến sự đào thải từng đã đưa tới sự nảy sinh tiến hoá lâu dài của những cơ thể sinh vật thì luôn luôn là một bí ẩn. Vâng, quả là một ẩn số khó tìm ra được một giải thích thoả đáng trong các trường hợp tiến hoá lâu dài ấy, ví dụ: sự tiến hoá từ những loại bò sát biến thành những con chim hay từ những con cá bơi lội trong nước trở thành những con vật sống trên đất.
Giờ đây, người ta đã tìm cách giải mã điều bí ẩn lớn nhất của sự tiến hoá bằng những phương tiện thuộc sinh vật học về phân tử hay thuộc tính trùng hợp hoá học. Vấn đề ở đây là vấn nạn về sự xuất phát của những chuỗi dài yếu tố di truyền DNA, tức những yếu tố cơ bản cấu tạo nên sự sống. Nhưng điều ấy đã rõ ràng nói lên rằng sự cấu tạo những chuỗi như thế nếu không có sự can thiệp của một ý muốn vốn đã hiện hữu trước, hay nói cách khác, nếu không có một Đấng Tạo Hoá toàn năng và tự hữu, thì hoàn toàn là một điều bất khả, ví dụ như trong việc chế tạo ra những chất hoá học đa dạng xảy trong phòng thí nghiệm hay trong sự sản xuất kỹ nghệ.
Quan niệm chủ trương có thể giải thích được vũ trụ mất chỗ đứng
Tuy nhiên, sự phê bình này không chỉ nhằm vào lý thuyết về nguồn gốc xuất phát của sự sống, nhưng còn nhằm tới quan điểm khá phổ quát cho rằng sự tiến hoá lâu dài xảy ra qua sự ngẫu biến và qua sự đào thải. Nhưng như đã trình bày, sự tiến hoá lâu dài được dựa trên một sự ăn sâu của những phân tử di truyền vào những chuỗi DNA đang hiện diện sẵn, chứ không dựa theo sựngẫu biến. Vì vấn đề ở đây không phải là bất cứ những phân tử di truyền nào đó, nhưng là những phân tử di truyền mới và vượt lên trên những phân tử đang có. Dĩnhiên, sự diễn biến như thế thì chắc chắn là rất khó lòng kiểm soát được.
Ở đây, chúng ta hãy nghe ý kiến của hai nhà hoá học nổi tiếng, Bruno Vollmert und Manfred Eigen. Tiến sĩ Vollmert viết: “Khi tôi càng nỗ lực suy luận một cách chính xác theo đúng các nguyên tắc khoa học, thì tôi càng trở nên xác tín hơn khi cho rằng vũ trụ đã được một Đấng Tạo Hoá toàn năng tạo dựng nên, chứ không phải như thuyết tiến hoá của Darwin chủ trương”(x. “Das Molekül und das Leben”). Còn Tiến sĩ Eigen thì kết luận: “Nếu ngày nay có ai khẳng định rằng vấn đề nguồn gốc sự sống trên hành tinh chúng ta đang ở đã được giải mã, thì người ấy đã quá lời so với sự hiểu biết của mình”(x. “Die Entwicklung des Lebens”).
Để tóm luợc suy luận trên, có lẽ chúng ta thử đưa ra một ví dụ: Chẳng hạn cứ tạm cho rằng người ta tìm thấy trên mặt trăng một chiếc máy bay tối tân, và người ta cũng biết được chiếc máy bay đó đã được lắp ráp và cấu trúc như thế nào. Tuy nhiên, còn một bí ẩn chưa được giải mã, đó là sự lắp ráp thành chiếc máy bay đã thành công ra sao.
Một điều đáng ghi nhận ở đây là đại chúng biết được rất ít về tính cách khả nghi của thuyết tiến hoá cũng như sự đa dạng trong công cuộc khám phá cơ bản và quan trọng của nó. Nhưng cũng phải chấp nhận rằng hiện tượng ấy sẽ có thể thay đổi theo một mức độ mà kinh nghiệm về không gian đang thu hút một sự chú ý rộng rãi của đại chúng như chúng ta từng chứng kiến qua các bài khảo cứu được tường trình trên các kênh truyền hình quốc tế.
Như vậy, qua sự tiến bộ của sự nhận thức khoa học, con người càng phải đối mặt với một bí ẩn to lớn về sự sống và đồng thời quan niệm chủ trương rằng người ta có thể dùng khoa học để giải mã được mọi bí ẩn của vũtrụ đã từ từ tan biến và mất hết đất đứng. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là con người thôi không cần tìm hiểu và nghiên cứu về vũ trụ nữa; nhưng chỉ muốn khẳng định rằng con người không nên gắn bó với ý tưởng sai lầm cho rằng khả năng nhận thức khoa học của con người có thể xoá bỏ niềm xác tín Kitô giáo vàoĐấng Tạo Hoá toàn năng đã tạo dựng nên vũ trụ, con người và tất cả mọi tạo vật khác trong vũ trụ; trái lại, đức tin là con đường duy nhất có thể giúp con người giải mã được bí ẩn về nguồn gốc của sự sống và của vũ trụ, hay nói cách khác, có thể giúp con người tìm thấy chân lý sau cùng, khi nó dẫn đưa con ngườiđến cùng Thiên Chúa Tạo Hoá, Đấng chính là nguồn gốc của mọi sự sống và của vũ trụ.
Lm. Nguyễn Hữu Thy