Vợ ông Lót hay bức tượng muối

lots wife1 - Vợ ông Lót hay bức tượng muối

Khi hừng đông ló rạng, các sứ thần giục ông Lót rằng: “Đứng lên! Đưa vợ và hai con gái ông đang ở đây đi đi, kẻo ông phải chết lây khi thành bị phạt.” Ông còn đang chần chừ thì hai người khách nắm lấy tay ông, tay vợ ông và tay hai người con gái ông, vì Đức Chúa muốn cứu ông; các ngài đưa ông ra và để bên ngoài thành. Khi đưa ông ra ngoài rồi, một vị nói: “Ông hãy trốn đi để cứu mạng sống mình! Đừng ngoái lại đằng sau, đừng dừng lại chỗ nào cả trong cả Vùng. Hãy trốn lên núi kẻo bị chết lây.” Ông Lót nói với hai người khách: “Thưa ngài, xin miễn cho! Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ lòng thương lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất! Kìa, có một thành khá gần, có thể trốn vào đấy được, thành ấy lại nhỏ. Xin cho tôi trốn vào đó – thành đó nhỏ mà – để tôi được sống.” Người nói với ông: “Được, vì nể ông một lần nữa, tôi sẽ không phá đổ thành mà ông nói. Ông hãy mau trốn vào đó, vì tôi không thể làm gì trước khi ông vào đó.” Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Xôa. Khi mặt trời mọc lên trên mặt đất thì ông Lót vào Xôa. Đức Chúa làm mưa diêm sinh và lửa từ Đức Chúa, từ trời, xuống Sôđôma và Gômôra. Người phá đổ các thành ấy và cả Vùng, cùng với toàn thể dân cư các thành ấy và cây cỏ trên đất. Bà vợ ông Lót ngoái lại đằng sau và hoá thành cột muối. Sáng hôm sau ông Ápraham dậy sớm, đến chỗ ông đã đứng trước mặt Đức Chúa. Ông nhìn xuống phía Sôđôma, Gômôra và cả Vùng, ông thấy khói từ đất bốc lên như khói một lò lửa!


Biết bao năm lang thang trong sa mạc. Bao năm dựng lều rồi lại hạ lều, tìm nguồn nước rồi kín nước đem về lán trại. Biết bao năm sinh nở trong sa mạc, phục vụ ông Lót. Bao năm làm người phụ nữ quyền lực thứ hai, xếp sau bà Sara, trước khi trở thành vương phi, phu nhân của một vị tộc trưởng. Một bộ tộc giàu mạnh, một địa vị đáng mơ đáng ước. Và rồi cuộc sống nơi sa mạc vẫn cứ tiếp diễn với bao trách nhiệm, công việc luôn chất đầy lên đôi vai người phụ nữ.

Rồi một ngày nọ cũng đến được Sôđôma. Một thành phố. Một căn nhà. Một cuộc sống xã hội. Một mái nhà che nắng che mưa với tường bảo vệ chung quanh, ít lo lắng cho ngày mai, một giếng nước cố định. Cất đi những bọc quần áo, lều trại xếp xó, thích ứng với cuộc sống mới. Bà đã an cư.

Tuy nhiên đối với bà, nỗi buồn vẫn còn đấy. Buồn vì không sinh cho chồng được một mụn con trai. Bao cuộc sinh nở nhưng vẫn toàn là con gái, cả bầy con gái. Nhưng từ khi sống nơi thành phố, ít ra bà đã không còn nơm nớp lo sợ cảnh một buổi sáng kia đứng nhìn những đứa con gái lên đường cùng với đoàn lạc đà đi về một phương trời vô định chỉ vì không đủ chỗ và đồng cỏ cho hai gia đình. Bà vui vì được sống cạnh kề mấy cô con gái. Các cô gái đầu đứa ăn hỏi, đứa đã yên bề gia thất. Bà đang mong chờ những đứa cháu ra đời, có thể là những đứa cháu trai.

Và chắc hẳn rồi, không có gì là hoàn hảo cả. Đôi khi tiếng gọi của sa mạc trỗi lên mạnh mẽ vì thành phố quá chật hẹp. Rồi những người Sôđôma với những tập tục khác lạ và vẫn xem gia đình bà như khách ngoại kiều dầu rằng họ khá thân thiện với nhau. Phải biết bao nhiêu thế hệ nữa mới hội nhập được đây? Gia đình bà luôn bị họ rình mò, dò xét, và canh chừng.

Rồi một đêm kia, ông Lót chồng bà vồn vã tiếp đón hai vị lữ khách đến đưa tin từ sa mạc, thông tin về hai vị khách lan truyền nhanh chóng. Đây rồi một đêm vui; cuối cùng rồi cũng có chuyện gì đó sắp xảy ra. Và chuyện gì đó ở Sôđôma cũng chỉ là thú vui dễ dãi, rượu và hãm hiếp. Và khi nạn nhân là nam giới, không dễ dàng như đối với phụ nữ đâu, thì lại càng phấn khích, khoái lạc hơn. Hoan lạc sẽ tràn đầy ở Sôđôma đêm nay đây.

Nhưng ông Lot, chồng bà, là người du mục. Và đối với những đứa con của sa mạc, hiếu khách là điều thánh thiêng. Với lũ đàn ông đang đập phá cửa nhà để đòi lạm dụng các vị khách, ông Lot đã mặc cả để đánh đổi những vị khách bằng những đứa con gái còn trinh nguyên của nhà ông.

Một tiếng kêu câm lặng thốt lên từ ruột gan của người mẹ. Bà biết rằng sự sống của một đứa con gái không đáng giá gì để tính toán hay tôn trọng. Bà chẳng nói được gì, chỉ ngồi đó, bất lực trước những mặc cả của chồng bà. Nhưng người nhập cư như ông có đánh đổi được gì không? Đành rằng ông phải cứu mạng họ nhưng liệu ông có thắng cuộc không đã chứ?

Và rồi còn mối nguy quá sức tưởng tượng của bà. Thành Sodoma đã bị kết án, nó sắp bị hủy diệt. Thiên Chúa đã hết kiên nhẫn với những loại người không đức tin không lề luật này, họ chẳng tôn trọng điều gì và chẳng kính nể ai. Ngài quyết định rằng thế là đủ lắm rồi, thành phố này và cả thành lân cận là Gômôra phải bị xóa sạch khỏi tấm bản đồ. Hai người đàn ông có nhiệm vụ báo tin đó cho gia đình bà. Họ là những người đưa tin, những sứ giả. Vì Thiên Chúa không phải là người bất khoan dung nên gia đình bà vẫn còn có cơ hội chạy thoát. Vẫn chưa quá trể. Nhờ Abraham đã mặc cả quyết liệt với Chúa nên cơ hội sống sót vẫn còn.

Vì ông Lot đã chứa chấp các vị khách nên họ bảo vệ ông. Những người Sôđôma chỉ nhìn thấy thú vui của mình nên các sứ giả đã làm cho họ mù mắt để không tìm thấy cửa mà phá.

Nguy hiểm vẫn không chừa ông Lot và người nhà. Bây giờ họ phải đi theo các vị sứ giả, vội vã lên đường đi trốn. Không còn thời gian đem theo những chiếc lều bỏ quên đâu đó. Nhanh lên, phải đi thôi, bỏ lại tất cả. Ai muốn sống sẽ được cứu.

Nhưng các con rể của ông Lot không nhúc nhích, họ không tin vào nguy hiểm, họ sẽ ở lại và các cô con gái đầu cũng ở lại với họ.

Ngay cả ông Lot cũng quyết định khó khăn, ông mệt mỏi và chẳng biết đi đâu. Ngọn núi cao ông nhắm làm nơi trú ẩn thì quá xa. Ông thấy mình không thể đi và trèo lên tới nơi được. Ông nài nỉ các sứ giả cho ông trốn trong một thành phố nhỏ kề cận, một làng quê heo hút. Đó là điều lớn lao nhất mà ông có thể làm trong lúc này, cho chính ông, cho người vợ của ông, cho các cô con gái mà ông vừa sẵn sàng hy sinh chúng.

Các vị sứ giả phải thúc giục, quát tháo, lôi kéo thì ông mới lên đường. Họ truyền lệnh cho ông phải tiến về phía trước, không được quay lại, trì hoãn thì sẽ không thoát được.

Buổi sáng hôm ấy

Bà đi theo ông
Như bao buổi sáng
Tan nát cõi lòng.

Bà bỏ lại căn nhà và các cô con gái đầu. Bà lên đường cùng với các cô con gái út và người đàn ông mà chỉ trước đấy ít lâu đã sẵn sàng giao nộp chúng, người để mình bị sỉ nhục và giờ thì không còn thấy đường để leo lên con dốc nghiêng nghiêng.

Rồi đột nhiên bà không thể tiếp tục được nữa.
Đi theo ông Lot thì ích lợi gì chứ?
Ông già ấy còn có thể dẫn bà đi về phía tương lai nào?

Bà quay người lại chầm chậm và nhìn quá khứ của mình bị thiêu rụi. Trong khi người nhà vẫn còn tiếp tục bước đi thì bà đứng sửng lại, không thể đi tiếp được.

Quá khứ tiêu tan, tương lai mờ mịt.
Bà không chết. Bà chỉ bất động. Bà vẫn ở đấy, hóa thành tượng.

Biến thành tượng, cái bóng bà của bà hắt lên bầu trời. Bà không chết. Bà chỉ bất động, bị bỏ lại bên vệ đường. Cuộc sống bà đã chấm hết, không còn lại gì.

Tháng năm dần trôi qua, chục năm, trăm năm rồi hàng ngàn năm. Và buổi sáng đó vẫn còn đấy, một hình ảnh không lời, hữu hình và vĩnh cửu, sự căng thẳng không thể chịu đựng nổi giữa trước và sau, quá khứ và tương lai.

Bà không còn hưởng nếm cuộc sống nữa, cũng không tưởng tượng được mình rằng sẽ thêm mùi vị cho cuộc sống của những người qua đường. Bà không biết rằng mình biến thành một thứ rất quý giá cho những ai đến gần.

Một bức tượng.
Nhưng là tượng muối.
Muối cho đời, mùi vị cho thế gian.
Tài sản vô giá cho khách qua đường.

Dừng bước và quay lại, nhưng bà đã không nhận cơn sấm sét từ trời. Bà không tin vào cuộc sống riêng mình nữa, không còn thấy được tương lai nữa. Tuy nhiên, bà đã tồn tại mãi với năm tháng. Và muối có sức sống. Vì dù cho có đứng sửng lại, hóa thành tượng và bất động, cuộc sống của người đàn bà vẫn trao ban mùi vị và giá trị cho đời.

Lẽ ra bà đã có thể tiếp tục lên đường nếu ông Lot hoặc các cô con gái thấy bà dừng lại. Nhưng cả gia đình bận chạy trốn. Và bà bị bỏ lại đấy. Không ai nắm lấy tay bà.

Thế là tâm hồn chết lịm, bà trở thành muối cho người.

Bà không có tên và hầu như không có lịch sử, chỉ một câu rất ngắn đủ dừng lại để suy tư đôi chút về bà …

————————————————————-

Chú thích của người dịch:

Núi Sôđôma (Tiếng Do Thái là: הר סדום‎, Har Sedom) hay Jebel Usdumtrong tiếng Ả Rập (جبل السدوم‎, Jabal(u) ‘ssudūm) là một ngọn đồi nằm ở phần Tây Nam Biển Chết, trong khu bảo tồn thiên nhiên Giuđê. Điểm đặc biệt là ngọn đồi này gồm toàn là muối mỏ (halite), dài 8 km, rộng 5 km và cao 226 m trên mặt nước Biển Chết, tuy nhiên vẫn thấp hơn 170 m với mặt nước biển. Vì nước rút dần đi nên một số phần nhô lên và nằm cách biệt nhau. Một trong những cột muối này có hình dáng người, và được đặt tên là « Vợ ông Lót » theo như trình thuật Kinh Thánh.


Biển Chết nhìn từ núi Sôđôma




Cột muối trên núi Sôđôma được đặt tên là “Vợ ông Lót”

Nữ thần học gia Véronique Isenmann
Fribourg (Thụy Sỹ)

Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ
Exit mobile version