Ủy ban Phụng Tự giải thích quy định về Giảng lễ, Đặt tay và Rảy nước phép

uy ban phung tu giai thich quy dinh ve giang le dat tay va ray nuoc phep - Ủy ban Phụng Tự giải thích quy định về Giảng lễ, Đặt tay và Rảy nước phép

Một linh mục có được phép đưa những người làm chứng lên chia sẻ trong phần bài giảng của mình không?

1- Theo giáo luật (điều 767, 1), việc giảng lễ chỉ dành riêng cho tư tế hoặc phó tế. Vậy, một linh mục có được phép đưa những người làm chứng lên chia sẻ trong phần bài giảng của mình không?

Thực hành đưa những người làm chứng lên chia sẻ trong phần bài giảng thuộc về phạm trù “giáo dân thuyết giảng”. Đúng là theo giáo luật (điều 767, 1) và được Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma [2002] (số 66) cũng như Huấn thị Bí tích Cứu độ [2004] (các số 64-66; 161) nhắc lại, việc giảng lễ chỉ dành riêng cho tư tế hoặc phó tế và không bao giờ trao cho một giáo dân. Thế nhưng, tín hữu giáo dân lại được phép “chia sẻ” trong thánh lễ [chứ không phải giảng lễ] qua những hướng dẫn và làm chứng của họ bằng việc suy niệm Lời Chúa, giải thích bản văn Kinh Thánh hoặc thuyết trình. Tuy nhiên, ngay cả bài giảng lễ của LM và PT cũng không được xem như thời gian dành cho các ngài chia sẻ chứng tá cá nhân với những câu chuyện riêng tư của mình mà bài giảng lễ phải diễn tả đức tin của GH (Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Chỉ Nam Giảng Lễ, số 6), bởi vậy, phải thật cẩn trọng khi đưa người làm chứng trong thánh lễ và tuân giữ những gì nói tiếp dưới đây:

  1. Thực hành này phải được HĐGM cho phép. Chẳng hạn HĐGM Hoa Kỳ chỉ cho phép giáo dân chia sẻ trong một vài trường hợp như: khi vắng hay thiếu hụt giáo sĩ, khi đòi hỏi phải sử dụng một ngôn ngữ khác biệt hoặc liên quan đến lãnh vực thuộc về chuyên môn hay kinh nghiệm của giáo dân, nhưng không bao giờ giáo dân được giảng trong thánh lễ (USCCB Decree, 13/12/2001,BCL Newletter 37 [2001] 49-50). Nếu như HĐGM không ra chỉ thị về vấn đề này, thì phải tuân theo các quy luật liên quan đến việc giảng thuyết được ban hành bởi ĐGM giáo phận (Bộ Giáo Luật, số 756#2; 772#1);
  2. Nếu thấy cần để một giáo dân lên thông báo tin tức hay trình bày một chứng từ đời sống kitô hữu cho các tín hữu tụ họp trong nhà thờ/ nhà nguyện, cách chung nên làm việc này ngoài thánh lễ. Nhưng mà, vì những lý do nghiêm trọng, được phép trình bày loại thông báo hay chứng từ này khi linh mục đã đọc xong lời nguyện Hiệp Lễ chứ không được đưa họ lên làm chứng trong phần bài giảng của thánh lễ. Tuy vậy, một việc làm như thế không được trở thành thói quen, nghĩa là thuộc trường hợp ngoại lệ chứ không phải thường lệ. Hơn nữa, việc chia sẻ và làm chứng phải mang hình thức ngắn gọn, phải luôn luôn hòa hợp với các quy tắc phụng vụ, được trình bày trong những dịp đặc biệt mà thôi (chẳng hạn như ngày của chủng viện, ngày bệnh nhân, v.v…), cũng như không được xem nó như là một sự thăng tiến chính thức của hàng giáo dân. Đồng thời, những thông báo và chứng từ này không được có những đặc tính có thể làm lẫn lộn chúng với bài giảng lễ, và cũng như không là nguyên nhân để loại bỏ hoàn toàn bài giảng (Xc. Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Huấn thịBí tích Cứu độ, các số 74, 161; Bộ Giáo sĩ và Các Bộ khác, Huấn thị liên bộ về một số vấn đề liên quan đến việc giáo dân cộng tác vào sứ vụ của các linh mục, Ecclesiae de mysterio, 15/08/1997, số 3: AAS 89 (1997), 852-877)

    3. Người chia sẻ hay làm chứng phải là một tín hữu công giáo vì theo Bộ Giáo Luật: (1) Những người giảng Lời Chúa, trước hết hãy trình bày những điều cần phải tin và phải làm nhằm vinh danh Chúa và cứu rỗi nhân loại; (2) Cũng phải trình bày cho tín hữu giáo thuyết Hội Thánh dạy về nhân phẩm và tự do của con người, về sự duy nhất và sự vững bền cùng những trách vụ của gia đình, về những bổn phận của những người công dân sống trong xã hội, và cả về việc điều hành những việc trần thế theo trật tự Chúa đã ấn định (điều 768).
    4. Chỉ đôi khi giáo dân mới chia sẻ trong thánh lễ với trẻ em trong trường hợp thánh lễ đó có ít người lớn tham dự nhất là khi vị gỉang lễ tự thấy rằng mình khó có thể thích ứng hay đồng cảm với tâm trí của trẻ em. Việc chia sẻ này được sự đồng ý của cha sở hay quản nhiệm nhà thờ trên căn bản làquyền ban phép thực thụ cho thực hành này chỉ thuộc thẩm quyền của các Đấng Bản Quyền sở tại mà thôi [như đã nói ở số 1) trên], và luôn luôn là ad actum, chứ không thuộc quyền ai khác, kể cả các linh mục hay phó tế(Bộ Phụng Tự, Hướng dẫn Thánh lễ với Trẻ em, 01/11/1973, AAS 66 [1974], 24; Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 161). Và chỉ thỉnh thoảng giáo dân mới chia sẻ như một phần phụ thêm vào bài giảng lễ của LM hay PT hoặc có thể thay thế cho bài giảng lễ khi vị giảng lễ (LM hoặc PT) bị ngăn trở về thể lý hay luân lý. Vì dầu sao, sự trợ giúp này không được dự liệu để đảm bảo cho người giáo dân tham dự đầy đủ hơn, nhưng, tự bản tính, nó là bổ sung và tạm thời; còn bổn phận đầu tiên của những người có chức thánh vẫn là rao giảng Lời Chúa cho dân Chúa nhằm thánh hóa họ và để tôn vinh Thiên Chúa (Bộ Giáo Luật, số 213; 756#2; 757; 762 và 772#1; Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 151).

2- Nghi thức đặt tay có ý nghĩa gì trong các cử hành phụng vụ? Việc Rẩy Nước phép trong nghi thức phụng vụ được phép thực hiện như thế nào?

A- Nghi thức đặt tay có ý nghĩa gì trong các cử hành phụng vụ

Hành động đặt tay bằng cách đặt một tay hay hai tay trên một ai đó hay trên một vật thể nào đó là cử chỉ mang ý nghĩa bí tích. Vì thế, cử điệu này được vị chủ sự cử hành phụng vụ sử dụng trong nhiều nghi thức phụng vụ với những ý nghĩa như sau:

B- Việc Rẩy Nước phép trong nghi thức phụng vụ được phép thực hiện như thế nào?

Nước thánh biểu trưng cho sự thanh tẩy. Trong bí tích Rửa tội, người ta dìm, rảy hoặc đổ nước trên thụ nhân bởi nước được coi là chất liệu chính yếu của bí tích này (x. Ga 3,5). Nước thánh là một phụ tích, vì thế được dùng để rảy trên người, trên vật thể và nơi chốn tùy nghi thức như dấu hiệu dùng trong việc ban phép lành và mang nhiều ý nghĩa khác nhau.

Rảy nước thánh trên các tín hữu nhắc nhớ họ về bí tích Tái sinh đã lãnh nhận nhờ đó họ sẽ cùng chết, mai táng và phục sinh với Chúa Kitô, nghĩa là được thông dự vào cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên tội lỗi và sự chết; nghi thức này cũng đề cao “chức tư tế cộng đồng của tín hữu”[5] và nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa bí tích Rửa tội và việc tham dự thánh lễ của họ.[6]

Việc rảy nước thánh trên vật thể và nơi chốn khi làm phép nhắc nhở chúng ta sử dụng các thực thể ấy vào mục đích tốt đẹp theo thánh ý Chúa Cha.[7]

Với ý nghĩa như vậy, việc rẩy nước thánh được phép thực hiện trong nhiều trường hợp, ví dụ như:

Những điểm sau đây cần lưu ý khi rảy nước thánh trong thánh lễ:

Ủy ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam

Exit mobile version