|
Tôi đã hoàn thành văn bằng Thạc sĩ (MBA) của Đại học Quản lý Ấn Độ (IIM), Bangalore (Các trường khối B tốt nhất ở Ấn Độ) về tiếp thị và đã được giao quản lý một nhượng quyền thương mại Parle ở Bhutan trong 3 năm. Tôi đã đổi sang Công giáo vào năm 1974 lúc còn là một học sinh lớp 9 tại Trường Thánh Giuse, North Point, Darjeeling, một trong những trường nội trú tốt nhất ở Ấn Độ. Sau khi học xong tại Darjeeling, tôi theo học tiền đại học tại Trường Cao đẳng Thánh Joseph, Bangalore, và theo đuổi văn bằng Giáo dục tại Trường Cao đẳng Thánh Xavier, Mumbai, cho kỳ tốt nghiệp của mình. Tôi trở về Bangalore để hoàn tất văn bằng hậu đại học về quản lý (PGDM) tại Học viện Quản lý Ấn Độ (IIM).
Trong 2 năm, tôi lãnh nhận các bí tích trong bí mật. Ngày nay, nhờ sự cao thượng của vị vua thứ tư đã cho chúng tôi một Hiến pháp dân chủ, người dân có quyền tự do lương tâm và do đó có quyền thực hành bất kỳ một tôn giáo nào. Trước khi Hiến pháp mới ra đời, một số người Công giáo ở đây đã quá sợ hãi khi tham gia bất kỳ tôn giáo nào. Ngày nay chúng tôi được phép tham dự Thánh lễ và những phụng vụ khác.
Từ năm 1974, trong tôi có một khắc khoải, tôi luôn mong muốn – và cảm thấy được gọi – để dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa Kitô trong vai trò một linh mục. Tuy nhiên, với các nghiên cứu chuyên môn của tôi đây đó, cùng với áp lực từ gia đình và phong cách sống cá nhân của riêng tôi đã không giúp tôi cương quyết thực hiện quyết định. Tôi có nhiều linh mục như những người cha tinh thần luôn khuyến khích tôi chờ đợi và thậm chí đề nghị tôi kết hôn vì tôi là người Công giáo duy nhất ở Bhutan để Giáo Hội có thể phát triển ở đó. Tuy nhiên, kể từ khi tôi có khao khát tiềm ẩn trở thành một linh mục, tôi bắt đầu cầu nguyện với Chúa cho tôi một dấu hiệu. Tôi nhớ mình đã cầu nguyện rằng Chúa không cần phải cho tôi một dấu hiệu như Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu bằng cách cho tuyết rơi vào mùa hè, nhưng là một dấu hiệu có thể giúp tôi không nghi ngờ.
Vào một buổi sáng chủ nhật khi chuông nhà thờ đổ hồi tại Hyderbad, tôi đi tham dự thánh lễ vì nó gần khách sạn tôi ở. Tôi đã cầu nguyện trong Thánh lễ cho tôi một dấu hiệu. Trong chuyến bay buổi tối đến Kolkata, tôi đã mong được gặp một người bạn gái nhưng chuyến bay đã bị trễ một chút vì có một nhân vật quan trọng (VIP – Very Important Person). Tôi hơi khó chịu vì sự chậm trễ này nhưng tâm trạng của tôi thay đổi ngay lập tức khi nhìn thấy Mẹ Têrêsa tiến vào và ngồi ngay bên cạnh tôi ở hàng ghế phía trước. Trái tim tôi đập thình thịch và tôi cố giữ hơi thở bình thường! Máy bay cất cánh và Mẹ thậm chí không nói một lời nào với tôi hoặc lưu ý đến tôi. Mẹ chìm đắm trong cầu nguyện và những gì có vẻ như vô tận, rồi Mẹ quay sang tôi và hỏi tôi từ đâu đến.
Tôi nói với Mẹ là từ Darjeeling, Mẹ rất vui mừng và đã kể cho tôi những ngày Mẹ sống tại Loreto, Darjeeling. Khi tôi nói với Mẹ thực sự tôi từ Bhutan đến và tôi là người Công giáo, Mẹ đã rất tò mò. Tôi nói với Mẹ rằng tôi là một người mới theo đạo và rất lâu trước đó lòng tôi luôn nghĩ đến Mẹ. Mong muốn của tôi là trở thành một linh mục nhưng tôi đã gặp phải mọi cám dỗ. Mẹ nắm lấy tay tôi và nói: “Tôi đã không nói điều này với nhiều người, nhưng tôi nói với con. Con có ơn gọi và có lòng quảng đại với Thiên Chúa, và Ngài sẽ quảng đại với con.” Tôi rơm rớm nước mắt và tôi đã khóc trong suốt chuyến hành trình đến Calcutta với lòng tràn đầy niềm vui. Tôi đã xin Chúa một phép lạ để khẳng định ơn gọi của tôi, và Ngài đã sai một thiên thần đến với tôi, giống như Đức Mẹ. Tôi không còn gì khác để nói ngoài lặp lại lời của Đức Mẹ: “Này đây là nữ tỳ của Chúa, xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền.”
Mẹ của tôi đã đến và gửi tôi lại nhà tập Dòng Tên tại Mount Carmel ở Kurseong. Tình yêu lớn lao của mẹ dành cho tôi khiến bà quên đi những nghịch lý và trớ trêu của thời điểm này. Một người mẹ Phật giáo cho phép con trai của bà trở thành một tu sĩ Công giáo! Đó là điều không thể tưởng tượng được vào thời điểm đó. Mẹ tôi nuốt đi những giọt nước mắt của mình và dũng cảm để tôi ở lại nhà tập Dòng Tên. Tôi đã rất hạnh phúc khi tham gia tập viện mà tôi không nhận ra nỗi đau khổ của bà. Khi mẹ rời đi, tôi cảm thấy rất nhẹ nhõm để trở thành một con người mới. Nhưng sự bình an của tôi thật ngắn ngủi. Vào buổi tối hôm đó, bà trở lại và năn nỉ tôi về nhà và quên đi điều điên rồ này. Tôi xin bà cho tôi 2 tuần cho cuộc thử thách đầu tiên và sau đó nếu tôi không thích thì thì bà hãy trở lại và đưa tôi về nhà.
Tình yêu của mẹ dành cho tôi đã cho bà sức mạnh để đồng ý và quay về. Hai tuần sau đó, bà lại một lần nữa có mặt tại nhà tập và nhận ra tôi rất hạnh phúc, bà đã trở về và gửi cho tôi một tin nhắn: “Hãy là một tu sĩ tốt và đừng bao giờ đổi ý.”
9 năm sau, bà hiện diện trong lễ truyền chức của tôi và rạng rỡ với niềm vui và mỉm cười, trong khi các chị em tôi đã khóc. Tôi nhớ những gì bà nói với những người có mặt tại lễ truyền chức. “9 năm trước, tôi đã khóc hết nước mắt và bây giờ tôi vui mừng với con trai của tôi, vì bây giờ con tôi sẽ phục vụ nhân loại.” Cha tôi, một Phật tử sùng đạo, đã không tham dự lễ truyền chức nhưng đã tôn trọng sự lựa chọn của tôi.
Sau khi thụ phong linh mục, tôi đến Calcutta để gặp Mẹ Têrêsa. Điều đầu tiên Mẹ nói với tôi là: “Tôi đã cầu nguyện cho con trong 10 năm qua.” Lời khuyên của Mẹ dành cho tôi vào thời điểm đó là: “Hãy là một tu sĩ (linh mục) tốt và đừng quên người dân, nhất là người nghèo.”
Mẹ tôi không phải là một nhà thần học, nhưng tôi nhận ra rằng những gì mẹ dạy tôi lúc còn bé là các nhân đức Kitô hữu mà tôi trân quý khi trưởng thành. Một người mẹ Phật giáo đã giúp một linh mục Dòng Tên tự hào về ơn gọi của mình, phục vụ khiêm tốn cho người nghèo, không bao giờ quên rằng cuộc sống là chóng qua và vô thường và không ngừng nghiên cứu Phật pháp, để thoát khỏi những nghiệp chướng qua tầm nhìn Linh Thao của chúng tôi.
(Mai Trang/ P. Kinley Tshering, SJ, AsiaNews 04-09-2013)