Thiên Chúa ở cùng ta

cross hands - Thiên Chúa ở cùng ta

Cv 15, 7-21
Tv 95

Ga 15, 9-11
9 Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.10Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người.11 Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.

Suy niệm

Trong Kinh Thánh, thành ngữ “Chúa ở cùng” có một nội dung đặc thù là : Ai được Chúa ở cùng, người ấy được Chúa trao cho một sứ mệnh vượt khả năng, và Ngài giúp họ thành công mỹ mãn hơn lòng mong ước. Đan cử như

* Ông Môsê run sợ và trốn tránh quyền lực đế quốc Ai Cập đang truy đuổi, vì ông là người Do Thái đã giết một người Ai Cập, ông lại mang tật nói ngọng ! Nhưng khi được Chúa nói : “Ta ở cùng ngươi”. Thế là ông dám đương đầu với quyền lực đế quốc Ai Cập để dẫn dân Do Thái ra khỏi cảnh nô lệ ! (x Xh 3,12t)

* Ngôn sứ Giêrêmia thưa với Thiên Chúa : “Tôi chỉ bằng đứa con nít, lại bị bao kẻ ác muốn chôn sống tôi, họ đã từng quăng tôi xuống giếng cạn ! Làm sao tôi có khả năng dạy bảo chúng phải sửa cách sống để theo ý Chúa được ?” Nhưng Ngài bảo : “Có Ta ở với ngươi”. Thế là ông Giêrêmia trở thành ngôn sứ tuyệt vời của Thiên Chúa (x Gr 1,1-8) ; rồi cả đến ngôn sứ Isaia cũng vậy (x Is 41,10-20).

* Khi ông Môsê biết mình sắp qua đời, muốn trao cho ông Giosuê sứ mệnh tiếp tục dẫn dắt dân Do Thái vào đất Hứa, mà ông Giosuê chỉ là đồ đệ của ông Môsê, ngay chính bản thân ông Môsê còn bị dân chống đối, thì làm sao Giosuê có thể thay thế sứ mệnh cao cả này được ? Nhưng ông Môsê nói nói với ông Giosuê : “Có Chúa ở cùng con!” Thế là ông Giosuê đã thành công trong nhiệm vụ được giao phó ! (x Gs 1,6-9)

* Đặc biệt nhất là vào thời Thiên Chúa khai mào thực hiệnơn cứu độ cho nhân loại, Ngài dùng cô Maria, quê Nazareth chẳng có gì hay cả ! (x Ga 1,46) Nhưng khi thiên thần nói : “Chúa ở cùng bà”, thì cô Maria dù chẳng liên hệ đến nam giới mà cô vẫn sinh Con Thiên Chúa, trở nên Mẹ Đấng Cứu Thế! (x Lc 1,28).

* Khi Chúa Giêsu về Trời, Ngài trao quyền cho các môn đệ, họ là tập thể bất toàn, không chỉ bất toàn về số lượng (11/12), mà còn bất cập về phẩm chất Đức Tin, vì trong số họ có kẻ hồ nghi về Thầy Giêsu! Thế nhưng Chúa vẫn tín nhiệm và sai họ đi khắp thế gian để cứu đời ! Bởi vì Ngài hứa : “Ta ở với các con mọi ngày cho đến tận thế!” (Mt 28,16-20).

Vậy ta phải sống thế nào để được Thiên Chúa ở cùng ?

Trong Tin Mừng Gioan không có thành ngữ “Thiên Chúa ở cùng”, nhưng dựa vào Lời Đức Giêsu dạy : “Nếu anh em tuân giữ các lệnh truyền của Thầy, anh em sẽ lưu lại trong lòng yêu mến của Thầy, cũng như Thầy đã giữ các lệnh truyền của Cha Thầy, và lưu lại trong lòng yêu mến của Người” (Ga 15,10 : Tin Mừng). Đó là cách Chúa ở cùng loài người, vì Lời Chúa là cơ thể thứ hai của Chúa Giêsu. Chính vì thế mà lời rao giảng đầu tiên Đức Giêsu không nói “hãy tin vào tôi”, mà Ngài nói : “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng”(Mc 1,15). Tin vào Tin Mừng là tin lời rao giảng của các chủ chăn trong Hội Thánh, thì mọi thế hệ bất cứ ai cũng có điều kiện đón nhận ; còn tin vào Đức Giêsu, người Nazareth, thì không phải ai cũng được thấy.

Nhưng lệnh truyền của Chúa ở đâu, để tôi nghe và tuân giữ ?Thánh Tôma Tiến sĩ nói : “Mỗi vấn đề được giải quyết trong lãnh vực của nó”. Cụ thể muốn “được Chúa ở cùng” phải giải quyết trong Đạo Công Giáo, đặc biệt ta phải xác tín : Chúa chỉ ban quyền công bố Lời Chúa (Chân Lý) cho Hội Thánh. Thực vậy,

C Mt 11,25 : Đức Giêsu nói : “Lạy Cha, Con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không mạc khải cho hạng khôn ngoan thông thái mà mạc khải cho những kẻ bé mọn”. “Kẻ bé mọn” trong Tân Ước, đặc biệt chỉ về các chủ chăn và các tín hữu trong Hội Thánh. Như Đức Giêsu đã nói với các môn đệ

– Nếu chúng con không trở nên bé nhỏ, chúng con không thể làm môn đệcủa Thầy (Mt 18,3).
– Đừng sợ, hỡi đoàn chiên nhỏ bé, vì Cha các con đã khấng ban Nước Trời cho các con (Lc 12,32).
– Hỡi các con thơ bé, Ta chỉ ở với các con một ít nữa thôi (Ga 13,33).
– Thánh Gioan viết thư cho các tín hữu, có nhiều người lớn tuổi hơn ông, nhưng ông luôn viết : “Hỡi các con thơ bé” (1Ga 2,1.12.14.18.28).

C
Mt 16,13-17 : Khi Đức Giêsu hỏi các môn đệ : “Người ta nói gì về Thầy?” Các ông thưa : “Có người nói Thầy là Êlya, kẻ khác nói Thầy là Giêrêmia, cũng có kẻ nói Thầy là Gioan Tẩy Giả. Nói chung, dư luận nói Thầy là một ngôn sứ”. Đức Giêsu không có ý kiến gì về những nhận xét đó. Ngài hỏi Nhóm Mười Hai : “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?” Ông Phêrô thưa : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức Giêsu xác nhận ngay : “Không phải phàm nhân nào mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Rõ ràng có nhiều người nói tốt về Đức Giêsu, xem ra Ngài chẳng quan tâm, chỉ riêng có ông Phêrô tuyên xưng Đức Tin, thì được Ngài khen nói chính xác nhất, bởi vì riêng mình ông đại diện Nhóm Mười Hai được Cha trên trời mạc khải cho.

C
Ga 18,19-21 : Thượng tế Caipha hỏi Đức Giêsu dạy giáo lý thế nào? Ngài trả lời : “Ai muốn nghe giáo lý của tôi, cứ vào Nhà Thờ hỏi người nghe tôi nói, hằng ngày tôi giảng dạy trong đó”. Như vậy, hỏi người nghe Đức Giêsu chính là hỏi môn đệ Ngài, và Ngài xác nhận đó chính là Ngài giảng dạy hằng ngày.

C
Lc 10,16 : Đức Giêsu nói : “Ai nghe lời môn đệ Ta là nghe Lời Ta, ai khước từ môn đệ Ta là khước từ Ta và là khước từ Đấng đã sai Ta”.

C
Lc 22,31-32 : Đức Giêsu cầu nguyện riêng cho ông Phêrô, vịthủ lãnh Giáo Hội, vì ông có nhiệm vụ củng cố Đức Tin cộng đoàn.

C
Gl 1,8 : Ông Phaolô xác tín : “Cho dù thiên thần trên trời xuống loan báo Tin Mừng khác với Tin Mừng Hội Thánh rao giảng, thì đó là đồ chúc dữ !”

Xưa kia bà Mariam không tin ông Môsê được đặc quyền Chúa cho công bố Lời Chúa, bà nói : “Dễ chừng chỉ có Thiên Chúa phán dạy qua ông Môsê hay sao? Ngài đã không phán dạy ngang qua chúng ta nữa đó ư!” Chúa nghe được, phạt bà bị cùi tức khắc ! (x Ds 12,1-13). Vì việc công bố Lời Chúa , Chúa trao cho ai là quyền tự do của Thiên Chúa, loài người không ai được so bì, không ai được tự cho mình có quyền công bố và cắt nghĩa Lời Chúa. Thánh Kinh dạy : “Anh em phải biết điều này : không ai được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào trong Sách Thánh. Quả vậy, lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa.” (2Pr 1,20-21).

Thế mà tiếc thay rất nhiều người đã ly khai với Hội Thánh Công Giáo là Mẹ, là Thầy dạy Đức Tin, viện cớ có nhiều chủ chăn trong Hội Thánh bất xứng! Nếu trong một gia đình ông bố vướng nhiều tật xấu, thử hỏi có ai chấp nhận cho đứa con lìa bỏ gia đình và không nhìn nhận người người sinh ra mình là bố, nên không vâng lời khi bố dạy điều tốt ?!

Chính vì những chứng từ trên đây nói về quyền giáo huấn của Hội Thánh đã được Chúa trao, và Hội Thánh đã thể hiện quyền này cách cụ thể ngay trong đời sống Giáo Hội sơ khai, là Chúa mạc khải riêng cho ông Phêrô, cũng như soi sáng cho các Tông Đồ quyết định bỏ việc cắt bì, và cứ ban Bí tích Thánh Tẩy cho bất cứ ai nghe Lời Chúa do các Tông Đồ loan báo mà tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất (x Cv 4,12).

Tuy nhiên quyền giáo huấn của Hội Thánh được Chúa Thánh Thần hướng dẫn dần dần đến Chân Lý vẹn toàn.Đan cử : các Tông Đồ quyết định bỏ cắt bì, nhưng vẫn còn phải kiêng đồ ăn ô uế, những đồ cúng cho ngẫu tượng ; kiêng ăn thịt con vật chết chưa cắt tiết, kiêng ăn máu. Nhưng ngày nay các Luật ấy Hội Thánh không buộc tuân giữ. Đó là bằng chứng Chúa Thánh Thần dẫn đưa Đức Tin của dân Chúa mỗi ngày thêm hoàn hảo (x Cv 15,7-21 : Bài đọc). Đúng như Đức Giêsu đã nói với các Tông Đồ : “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng hiện giờ anh em không mang nổi, khi nào Thánh Thần đến, Ngài là Thần Khí sự thật sẽ đưa anh em vào tất cả sự thật, vì không phải tự mình mà Ngài nói, nhưng nghe gì Ngài sẽ nói ra và sẽ loan báo cho anh em những điều sẽ đến”(Ga 16,13-14).

Ngày nay, mỗi khi tham dự Thánh Lễ là ta được trực tiếp nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x Dt 1,1-2). Do đó giáo huấn của Công Đồng Vat.II buộc người giảng phải dựa vào các Bài đọc Hội Thánh đã chọn để trình bày cho giáo dân thấy “Lời Chúa tối ư quan trọng trong Phụng Vụ, là rút ra những mầu nhiệm Đức Tin và những QuyTắc cho đời sống Kitô hữu trong suốt chu kỳ năm Phụng Vụ”(Hiến Chế Phụng Vụ số 24 và 52).

Khi các mục tử dạy giáo lý, phải kín múc Chân Lý từ năm nguồn :

– Thánh Truyền.

– Kinh Thánh.

– Phụng Vụ.

– Giáo Luật.

– Giáo huấn của Hội Thánh.

(xem CĐ. Vat.II Trong Sắc Lệnh Nhiệm Vụ Mục Vụ của Giám Mục số 14)


1/ Thánh Truyền. Là lời giảng của Đức Giêsu cũng như của các Tông Đồ không được ghi lại thành văn bản. Như thế Thánh Truyền có trước Tân Ước và rất phong phú.

2/ Kinh Thánh. Là một phần của Thánh Truyền được ghi lại bằng văn bản.


3/ Phụng Vụ. Các thể thức Hội Thánh dạy cầu nguyện, phụng thờ Thiên Chúa, được quy định hợp với Thánh Kinh và Thánh Truyền.


4/ Giáo Luật. Quy định những sinh hoạt trong Hội Thánh và quy tắc cử hành các Bí tích.


5/ Giáo huấn của Hội Thánh. Chỉ dẫn về cách sống đạo do Đức Giáo hoàng hợp với Giám mục đoàn, được công bố trong các Công Đồng Chung và sách Giáo Lý Roma.


Vậy khi ta được Lời Chúa lưu lại trong tâm hồn và đem ra thực hành, biểu lộ lòng yêu mến Chúa, là ta được ở lại trong lòng Mến của Chúa Giêsu. Có thế ta mới thuộc về đoàn chiên của Ngài chăm sóc, như Ngài nói : “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27 : Tung Hô Tin Mừng). Đó là cách Chúa ở cùng ta, giúp ta làm gì cũng thành công (x Tv 1,2-3). Đến như “làm những việc như Chúa Giêsu và còn làm những việc lớn lao hơn, vìđược Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Chúa Cha chuyển cầu cho” (Ga 14,12). Đểta “kể cho muôn dân biết những kỳ công Chúa làm” (Tv 96/95,3 : Đáp ca).


THUỘC LÒNG

Nếu anh em tuân giữ các lệnh truyền của Thầy, anh em sẽ lưu lại trong lòng yêu mến của Thầy, cũng như Thầy đã giữ các lệnh truyền của Cha Thầy, và lưu lại trong lòng yêu mến của Người (Ga 15,10).


Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH

Exit mobile version