Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai!

Xuất thân từ một gia đình vô thần, tôi có một nhãn quan về Đức Tin và về Giáo Hội Công Giáo một cách khá .. cố định! Tôi cho rằng các Kitô-hữu tìm lánh nạn trong các xác tín của họ vì họ sợ cái chết, sợ bất hạnh. Như thế thì sự kiện quá rõ ràng, chả có gì để tìm hiểu hoặc bàn thảo thêm!

Mãi cho đến một ngày, trong chuyến xe buýt từ Lituani trở về Pháp, tôi gặp và làm quen với một đan sĩ trẻ mặc áo dòng bằng vải len thô. Đây là lần đầu tiên tôi trông thấy một người mặc tu phục như thế. Chúng tôi trao đổi tư tưởng và tôi phải thành thật thú nhận: vị đan sĩ trẻ tuổi đã kích thích tính tò mò của tôi. Cả hai chúng tôi đều lưu tâm đến cùng một lối sống, cùng yêu mến sự thuần khiết, thích gần gũi thiên nhiên và coi trọng tình huynh đệ. Vị đan sĩ mời tôi đến thăm Cộng Đoàn của thầy tại vương quốc Bỉ.

6 tháng sau, tôi khám phá ra ”Tibériade” giống như một tiểu quốc thiên đàng. Tại đây các nam nữ đan sĩ sống trên mảnh đất do chính các vị canh tác trồng trọt, sống trong các căn nhà do chính các vị xây cất bằng đá và bằng gỗ. Các vị phân phối thời giờ sống giữa lao công và kinh nguyện. Tôi tham dự các giờ kinh và các buổi cử hành phụng vụ như khán thính giả nhưng cảm thấy lòng thật xúc động. Vốn tính đa nghi, tôi tìm cách đặt nghìn câu hỏi, không phải chỉ với một tu sĩ, nhưng với nhiều tu sĩ khác nhau – riêng biệt từng vị một – với dụng ý kiểm chứng xem đây có phải là một giáo phái không.

Tôi đặt câu hỏi:
– Tại sao các vị tin nơi THIÊN CHÚA và làm thế nào để biết rằng đó là thật?

Mỗi vị có một câu trả lời khác nhau, rất hợp lý, và rất cá biệt. Như thế, tôi thấy rõ mình không đứng trước một nhóm Kitô-hữu thuộc loại giáo điều và thiển cận như tôi lầm tưởng.

Kể từ ngày đó – năm 2005 – mở rộng trước mặt tôi một con đường: chậm rãi, tiệm tiến và được soi sáng mỗi ngày một thêm mãi nhờ các sách báo tôn giáo mà các đan sĩ khuyên tôi nên đọc. Nhưng tôi vẫn chưa thấy tại sao lại phải vội vã thay đổi mọi chuyện. Và khi các tu huynh hỏi tôi về vấn đề bí tích rửa tội thì tôi tìm cách tảng lờ đi để khỏi phải trả lời. Bởi vì nếu muốn lãnh bí tích rửa tội thì tôi phải dừng lại nơi một giáo xứ trong vòng hai năm liền để theo một khóa học giáo lý dành cho dự tòng, và đây là điều tôi không muốn làm. Đúng ra là tôi sợ hãi.

Mãi cho đến một ngày, các đan sĩ mời tôi đến sống với các vị nơi một Cộng Đoàn bên nước Congo thuộc lục địa Phi Châu. Lý do là vì tại đây người ta cần một giáo sư Pháp ngữ. Tôi chấp nhận và hân hoan trả lời:
– Phải rồi, tôi sẽ đi Congo và sẽ chuẩn bị lãnh bí tích rửa tội!

Ngày hôm nay, từ Congo trở về Pháp, cuộc sống của tôi được thống nhất và thật hòa điệu. Tôi dấn thân trong một huynh đoàn Parvis. Tôi sống nơi căn nhà thuê tại khu ngoại ô của thành phố Lille ở miền Bắc nước Pháp. Tại đây chúng tôi làm chứng cho sự hiện diện của Đức Chúa GIÊSU KITÔ và của Giáo Hội Công Giáo trong một môi trường thật giản dị có số đông là tín đồ hồi giáo. Tôi làm nghề thợ mộc. Cuộc sống của tôi được dệt nên bởi các mối quan hệ thân hữu, hòa hợp và thật trầm lắng, không gây tiếng động ồn ào. Muôn vàn cảm tạ hồng ân Đức Tin đến từ THIÊN CHÚA là CHA nhân lành, từ ái vô biên!

(Chứng từ của anh Yann Fillebeen 27 tuổi).

… ”THIÊN CHÚA là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy nếu anh em gọi Người là CHA, thì anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này. Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Chiên Con vẹn toàn, vô tỳ tích là Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Người là Đấng THIÊN CHÚA đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào THIÊN CHÚA, Đấng đã cho Người sống lại từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào THIÊN CHÚA” (1Phêrô 1,17-21).

(”Prier”, l’aventure spirituelle, No 342, Juin 2012, trang 7)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Exit mobile version