Sứ mạng của Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội Thánh

ThanhGiuse - Sứ mạng của Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội Thánh

Có nhiều cách thức trình bày chân dung của Thánh Giuse, cũng tương tự như có nhiều cách thức trình bày Đức Maria. Những cuốn sách soạn để suy gẫm trong tháng ba dương lịch thường đề cao các nhân đức và phép lạ của thánh cả. Không thiếu tác phẩm được biên soạn dưới hình thức tiểu thuyết nhằm dựng lại cuộc đời gian truân của dưỡng phụ Đức Giêsu. Về phía thần học, người ta chú trọng đến tương quan giữa Thánh Giuse với Đức Mẹ (hôn nhân và khiết tịnh) hoặc so sánh đặc ân (Vô Nhiễm Nguyên Tội, Hồn Xác Lên Trời).[1]

Công Đồng Vatican II đã mở ra một hướng đi mới trong thần học về Đức Maria. Một đàng, thần học cần dựa trên các dữ kiện của mặc khải (Kinh Thánh và Thánh Truyền), chứ không thả hồn theo các giả thuyết; đàng khác, cần hướng đến vai trò của Đức Maria trong mầu nhiệm của Đức Kitô và của Hội Thánh. Chương VIII của Hiến chế tín lý về Hội Thánh đã được soạn theo chiều hướng đó. Từ sau Công Đồng, khoa Thánh-mẫu-học đã tiến triển rất nhiều, cách riêng do sự thúc đẩy của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Tiếc rằng, những sách viết về Thánh Giuse theo phương pháp thần học vừa nói vẫn còn ít. Trong bài viết này, chúng tôi ước mong bổ túc phần nào sự thiếu sót đó, bằng cách trình bày vai trò của Thánh Giuse trong mầu nhiệm của Đức Kitô và của Hội Thánh, dựa theo Tông huấn Redemptoris Custos của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (ban hành ngày 15/8/1989). Hướng đi này giả thiết hai điều:

1/. Cần chú ý đến các dữ kiện của mặc khải, chứ không phải là các ngụy thư hay các mặc khải tư;

2/. Cần nêu bật vai trò của Thánh Giuse trong chương trình cứu độ: ơn gọi của Người là phục vụ Chúa Cứu Thế, và vì thế trở nên mẫu gương cho Hội Thánh trải qua mọi thời đại tiếp tục sứ mạng thông truyền hồng ân cứu độ.

Bài viết gồm ba chương:

Chương Một: Thánh Giuse trong Kinh Thánh

Chúng ta sẽ tìm hiểu vai trò của Thánh Giuse dựa theo các sách Tin Mừng, đặc biệt là trong các đoạn văn? Tin Mừng thơ ấu “của Thánh Matthew và Luca”. Những đoạn văn này không chỉ liên quan đến Thánh Giuse mà thôi, nhưng còn liên quan đến Đức Maria nữa. Nói cách khác, việc tìm hiểu Thánh Giuse cũng giúp chúng ta hiểu biết hơn về Đức Maria, cũng như sự hợp tác của cả hai vị trong sứ mạng phục vụ Chúa Cứu Thế.

Ngoài ra, chúng ta cũng nên phân tích vài đoạn văn của Cựu Ước mà Hội Thánh tiên khởi và các Giáo phụ quen trưng dẫn để làm sáng tỏ vai trò của Thánh Giuse.

– Chương Hai: Thánh Giuse trong Truyền thống Hội Thánh

Tân Ước để lại cho chúng ta hình ảnh của Thánh Giuse như một con người thầm lặng: Người không nói một lời nào. Thánh Giuse vẫn tiếp tục giữ thinh lặng trong lịch sử Hội Thánh: đang khi phụng vụ đã phát triển lòng tôn kính các thánh tông đồ và tử đạo ngay từ những thế kỷ đầu tiên, thì mãi đến thế kỷ XVII lễ Thánh Giuse mới được cử hành trong toàn thể Giáo Hội. Lãnh vực thần học được phát triển sớm hơn, bởi vì Thánh Giuse đã được đề cập ngay từ thời các Giáo phụ và kinh viện, đặc biệt là Thánh Thomas Aquinas.

Từ cuối thế kỷ XIX, Thánh Giuse thường được nhắc đến trong các văn kiện Huấn quyền, được đánh dấu bằng Thông điệp Quamquam Pluries của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII (15/8/1889). Tông huấn Redemptoris Custos của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (15/8/1989) muốn kỷ niệm biến cố đó, đồng thời cũng mở ra một hướng đi mới cho thần học về Thánh Giuse.

– Chương Ba: Suy tư thần học

Dựa theo chiều hướng của văn kiện vừa nói, chúng tôi sẽ bàn về hai điểm:

1/ Vai trò của Thánh Giuse trong cuộc đời của Đức Giêsu, như là kẻ giữ gìn Đấng Cứu Thế: Người là chứng nhân cho mầu nhiệm nhập thể và cho căn cước của Đức Giêsu. Điều này sẽ được chứng tỏ khi tìm hiểu tương quan của Thánh Giuse với Đức Giêsu và với Mẹ Maria.

2/ Vai trò của Thánh Giuse trong đời sống của Hội Thánh. Thánh Giuse đã phục vụ Đức Giêsu là đầu của Hội Thánh, và trở nên mẫu gương cho Hội Thánh trong việc phục vụ chương trình cứu độ. Tông huấn Redemptoris Custos đề cao vài nhân đức nổi bật nơi Thánh Giuse: đức tin; trung thành với bổn phận; thinh lặng chiêm niệm.

Sau những suy tư thần học, chúng tôi dành mục cuối cùng để tìm hiểu những hình thức phụng vụ và đạo đức dân gian dành để tôn kính Thánh Nhân.

***

CHƯƠNG MỘT
THÁNH GIUSE TRONG KINH THÁNH

Khi trình bày một nhân vật nào, người ta thường bắt đầu với một đoạn nói về tiểu sử, thân thế, sự nghiệp. Chúng ta biết gì về tiểu sử Thánh Giuse?

Xin trả lời là các nguồn sử liệu về Thánh Giuse rất hiếm. Thật ra, điều này không có gì lạ, bởi vì vào thế kỷ thứ nhất của Kitô giáo các nguồn sử liệu không được phong phú. Ngay cả khi muốn viết cuộc đời Đức Giêsu, các sử gia cũng thấy lúng túng khi muốn thu thập dữ liệu liên quan đến giai đoạn ẩn dật của Người, bởi vì các sách Tân Ước không cung cấp nhiều chi tiết. Sự khó khăn này càng gia tăng khi bước sang cuộc đời của các môn đệ của Chúa.

Riêng đối với Thánh Giuse, những tài liệu lịch sử chắc chắn là các sách Tin Mừng, đặc biệt là những chương đầu của Tin Mừng Thánh Matthew và Thánh Luca. Dù sao, khi so sánh với những tài liệu về Đức Maria, chúng ta nhận thấy rằng Đức Maria còn hiện diện trong giai đoạn hoạt động công khai của Đức Giêsu, và thậm chí sau khi Chúa Phục sinh và Lên trời; còn Thánh Giuse thì không được nhắc tới nữa sau khi tìm lại Đức Giêsu trong đền thờ lúc lên 12 tuổi.

Để bù đắp vào những lỗ hổng đó, trong các thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, nhiều “Tin Mừng ngụy thư” ra đời, nhằm mô tả chi tiết về cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu, hoặc về gốc tích và việc tạ thế của Đức Mẹ và Thánh Giuse. Trước đây, các tài liệu này được sử dụng khá nhiều trong các bài giảng hoặc lưu truyền dân gian. Nhưng ngày nay, giá trị của chúng đã bị xét lại từ hai khía cạnh: lịch sử và thần học.

– Xét về khía cạnh lịch sử, các tài liệu đó phát sinh do óc tưởng tượng hơn là dựa theo dữ kiện khách quan.

– Xét về khía cạnh thần học, các tài liệu ấy ra đời do một quan niệm thiếu sót về chủ đích của các sách Tin Mừng. Thật vậy, các sách Tin Mừng không có ý định viết một tiểu sử về cuộc đời Đức Giêsu cho bằng “loan báo Tin Mừng”, nghĩa là công bố cho nhân loại biết hồng ân cứu độ mà Thiên Chúa ban qua lời giảng, hành động và cuộc tử nạn của Đức Giêsu. Vì thế nếu ai muốn truy tầm nơi các sách Tin Mừng những tài liệu để viết tiểu sử Đức Giêsu thì sẽ thất vọng; tuy nhiên, nếu ai muốn tìm hiểu sứ điệp cứu độ thì sẽ thấy đủ chất liệu.

Chúng ta cũng có thể nhận xét cách tương tự về Thánh Giuse. Tân Ước không cung cấp các chi tiết về tiểu sử của Người (ngày và nơi sinh; ngày và nơi qua đời); tuy nhiên, những đoạn văn Tin Mừng đã phác họa vai trò của Người trong việc hoàn tất chương trình cứu độ mà Thiên Chúa muốn thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô.

Trong chương này, chúng ta sẽ điểm qua những bản văn Tân Ước nói đến Thánh Giuse, đặc biệt nơi Tin Mừng của Thánh Matthew và Thánh Luca, và cố gắng khám phá ý nghĩa thần học của chúng. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ khảo sát những đoạn văn Cựu Ước đã được Hội Thánh tiên khởi áp dụng cho sứ mạng của Thánh Giuse.[2]

***

MỤC I. TIN MỪNG THÁNH MATTHEW

I. NHẬN XÉT TỔNG QUÁT

Trong bốn sách Tin Mừng, Thánh Matthew nói nhiều hơn hết về Thánh Giuse: trong hai chương đầu, Thánh Giuse giữ vị trí then chốt, và phần nào họa lại vai trò của tổ phụ Giuse trong Cựu Ước. Ngoài ra, Đức Giêsu được gọi là “con bác thợ mộc” ở Mt 13,55.

Thánh Luca cũng nhắc đến Thánh Giuse trong hai chương đầu, tuy nhấn mạnh nhiều hơn đến Đức Maria. Dù sao, Thánh Luca bổ túc thêm cho Thánh Matthew nhiều chi tiết để hiểu rõ hơn vai trò của Thánh Giuse trong mầu nhiệm Nhập thể và Giáng sinh của Đức Giêsu. Thánh Giuse còn được nhắc đến hai lần nữa trong Tin Mừng Luca vào lúc khai mạc sứ vụ công khai của Đức Giêsu (Lc 3,23 và 4,22).

Thánh Giuse được nói đến hai lần trong Tin Mừng Thánh Gioan (1,45; 6,42), nhưng hoàn toàn vắng bóng trong Tin Mừng Thánh Marco.[3]

Trước hết, chúng ta bắt đầu khảo sát Tin Mừng Thánh Matthew, đặc biệt là hai chương đầu tiên, quen được đặt tên là “Tin Mừng thời niên thiếu” (hoặc “Tin Mừng thơ ấu”); tuy rằng, thuật ngữ này không được chính xác lắm.

Thật vậy, chủ đích của hai chương đầu của Tin Mừng Thánh Matthew (48 câu) và Luca (132 câu) không hẳn là thuật lại gia thế của Đức Giêsu và tuổi thơ ấu của Người (giai đoạn ẩn dật trước khi hoạt động công khai). Ngoài việc kể lại sự thụ thai trinh khiết trong cung lòng Đức Maria và sự giáng sinh tại Bethlehem, hai thánh sử không nói gì thêm về những sinh hoạt thời thơ ấu của Đức Giêsu (đừng kể việc thánh gia lánh nạn sang Ai Cập và việc ở lại trong đền thờ lúc lên 12 tuổi). Thử hỏi các thánh sử có chủ đích gì? Tại sao phải thêm hai chương này, trong khi Thánh Marco và Thánh Gioan bắt đầu Tin Mừng với cuộc đời công khai của Đức Giêsu? Các học giả đã đưa ra nhiều ý kiến, có thể thu vào hai quan điểm.

– 1/. Quan điểm thứ nhất cho rằng đây là một thể văn đương thời giới thiệu các vĩ nhân với những điềm lạ xuất hiện trước khi chào đời, tựa như Abraham, Moses, Isaac, Samuel. Khuynh hướng này còn tăng hơn nữa nơi các “Tin Mừng ngụy thư”. Tuy nhiên, chủ ý của người viết không chỉ là đề cao thân thế của nhân vật anh hùng, nhưng còn muốn chúc tụng Thiên Chúa đã đoái thương dân tộc ưu tuyển và đã phái đến những vị cứu tinh.

– 2/. Quan điểm thứ hai cho rằng hai chương này là một thứ nhập đề cho toàn thể cuốn Tin Mừng. Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô được hoàn tất với mầu nhiệm Vượt qua nhưng đã được phác họa ngay từ khi Người ra đời. Nói khác đi, Đức Kitô là Đấng cứu độ nhân loại ngay từ cuộc Nhập thể, tuy hồng ân này đạt đến cao điểm nơi cuộc Tử nạn và Phục sinh.[4] Nơi Thánh Matthew, cốt yếu Tin Mừng có thể tóm lại như thế này: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đến để cứu chuộc muôn dân, là Đấng Messia được hứa cho dân tộc Israel. Thế nhưng Người đã bị dân tộc này khước từ (vua Herode tìm cách thủ tiêu Người;[5]cũng như về sau này các nhà lãnh đạo Do Thái sẽ lên án xử tử Người, Mt 27,1-2), đang khi đó Tin Mừng lại được dân ngoại đón nhận (các nhà chiêm tinh ở đây, cũng tựa như các dân tộc bên Đông bên Tây sẽ đến tham dự tiệc trong Nước Thiên Chúa, Mt 8,11; 28,19).

Thiết tưởng, hai quan điểm không trái nghịch nhau, bởi vì cả hai đều nhấn mạnh rằng không nên đọc “Tin Mừng thơ ấu” như là đọc chuyện thần thoại, nhưng cần phải khám phá ý nghĩa sâu xa của các trình thuật. Khuynh hướng thứ nhất cố gắng tìm hiểu ý nghĩa qua việc khảo sát thể văn, đối chiếu với các tác phẩm văn chương cổ điển. Khuynh hướng thứ hai chú trọng đến nội dung thần học, gắn liền với toàn bộ Tin Mừng. Theo nhãn giới này, “Tin Mừng niên thiếu” cũng có những nét giống với tự ngôn của Tin Mừng theo Thánh Gioan, nói về nguồn gốc của Đức Giêsu trước thời kỳ hoạt động công khai, nguồn gốc bắt đầu từ khởi nguyên (Ga 1,1). Chúng tôi sẽ áp dụng đường hướng này khi tìm hiểu các bản văn.

Xét về cấu trúc, hai chương đầu theo Tin Mừng Thánh Matthew, đã có nhiều đề nghị phân đoạn:

– 1/. Một ý kiến cho rằng, toàn bộ sách Tin Mừng theo Thánh Matthew được phân thành 5 quyển sách tương tự như bộ Ngũ thư của ông Moses. Cụ thể là các lời giảng của Đức Giêsu được gom thành 5 bài giảng về Nước Trời:

a/. Bài giảng trên núi công bố hiến chương Nước Trời, ở các chương 5-7;

b/. Bài giảng về sứ vụ rao giảng Nước Trời, chương 10;

c/. Bài giảng về các dụ ngôn giải thích bản chất Nước Trời, chương 23;

d/. Bài giảng về kỷ luật nội bộ Hội Thánh, mầm mống của Nước Trời, chương 18;

e/. Bài giảng về sự thiết lập vĩnh viễn Nước Thiên Chúa vào thời cánh chung, chương 24-25.

Hai chương đầu tiên xem ra đã gói ghém ý tưởng đó, với việc trưng dẫn 5 câu Kinh Thánh để kết thúc 5 đoạn văn:

Nhập đề: Gia phả (1,1-17)

a/. Isaia 7,14: Ơn gọi của Giuse (1,18-25)

b/. Mikha 5,2: Vua Herode, các nhà chiêm tinh, Bethlehem (2,1-12).

c/. Hoses 11,1: Trốn sang Ai Cập (2,13-15)

d/. Gieremia 31,15: Tàn sát các anh hài (2,16-18)

e/. Isaia 4,3 (Tl 13,5?): Từ Ai Cập trở về Nazareth (2,19-23).

Dĩ nhiên, các học giả còn đưa ra nhiều giả thuyết khác về cấu trúc của hai chương này, chẳng hạn:

– 2/. Dựa theo các giấc mơ của Thánh Giuse dẫn tới hành động

Trong Tân Ước, chỉ có Tin Mừng Matthew đề cập đến giấc mơ như là một phương tiện mặc khải ý Chúa.[6] Thánh sử ghi nhận 6 trường hợp được ghi nhận, trong đó 5 trường hợp nằm ở hai chương đầu, và cách riêng 4 trường hợp được dành cho ông Giuse (lấy bà Maria làm vợ; đưa thánh gia sang Ai Cập; trở về quê hương; định cư ở Nazareth). Trường hợp thứ năm dành cho các nhà chiêm tinh (2,12). Ba lần báo mộng cho ông Giuse được thuật lại theo một mô hình đồng nhất:

a/. Nhập đề: mô tả hoàn cảnh

b/. Công thức: “này kìa sứ thần Chúa[7] hiện đến báo mộng cho ông rằng”.

c/. Sứ điệp: thiên sứ trao cho ông một công tác “hãy đem” (hãy mang).

d/. Tuân hành: ông Giuse tuân hành

e/. Trích dẫn Kinh Thánh: để ứng nghiệm lời Chúa về một danh hiệu của Đức Giêsu: Emmanuel, Con (Thiên Chúa), người Nazareth.

– 3/. Dựa theo bốn câu hỏi xoay quanh căn cước của Đức Giêsu

a/. Ai (Quis)? Đức Giêsu Kitô (Messia), con vua David, con của cụ Abraham, sinh bởi một phụ nữ (1,1-17).

b/. Bằng cách nào (Quomodo)? Con Thiên Chúa đã trở nên con vua David do ông Giuse thuộc dòng dõi David chấp nhận hài nhi được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần (1,18-25).

c/. Ở đâu (Ubi)? Bethlehem, thành phố David, nhưng được các nhà chiêm tinh thuộc dân ngoại đến bái yết (2,1-12).

d/. Từ đâu (Unde)? Từ Bethlehem của người Do Thái, đi lánh nạn sang Ai Cập giống như ông Moses, về miền Galilee của dân ngoại, định cư tại Nazareth.

– 4/. Dựa theo những cuộc di chuyển địa lý: Bethlehem- Ai Cập – Nazareth

a/. Chương 1, diễn ra tại Bethlehem, thành phố vua David

b/. Chương 2, tường thuật việc di chuyển từ Bethlehem sang vùng đất dân ngoại (Ai Cập), để rồi kết thúc với việc hồi hương về Israel và định cư tại Nazareth.

Những cuộc di chuyển này không phải là do ngẫu nhiên, nhưng nằm trong toàn bộ lịch sử cứu độ, “ngõ hầu lời ngôn sứ được nên trọn”: Đức Giêsu sinh tại Bethlehem như là Messia lãnh tụ Israel dõng dõi vua David (2,6); sang Ai Cập và ra khỏi đó như là con Thiên Chúa (2,15); về Nazareth, trở thành biệt hiệu “Giêsu Nazareth” (2,23).

Sau phần giới thiệu tổng quát, bây giờ chúng ta hãy khảo sát bản văn.

II. GIA PHẢ ĐỨC GIÊSU KITÔ (1,1-17)

“Đây là gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua David, con cháu tổ phụ Abraham”
(Mt 1,1).

Tin Mừng Matthew mở đầu bằng một câu thoạt tiên xem ra mang tính cách cung khai lý lịch, kê khai dòng tộc. Thực ra, dụng ý của tác giả sâu xa hơn nhiều: đây không phải là lý lịch hành chánh cho bằng một lời tuyên xưng đức tin: “Đức Giêsu vừa là con cháu của vua David (nghĩa là phần tử của dân Israel) vừa là con cháu tổ phụ Abraham (nghĩa là phần tử của dân ngoại)”.

Thánh sử muốn chứng tỏ cho dân Do Thái biết rằng, Đức Giêsu là Đấng Messia (Kitô) được hứa cho miêu duệ của David qua gia phả của ông Giuse là con cháu David (chương Một), qua sinh quán là Bethlehem, thành phố vua David (chương Hai). Đồng thời, Đức Giêsu cũng mang ơn cứu độ cho dân ngoại, bởi vì Người là con cháu của tổ phụ Abraham, kẻ đã nhận được lời hứa dành cho muôn dân: “Từ Đông Phương, Tây Phương, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac và Jacob trong Nước Trời, còn con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc, nghiến răng” (Mt 8,11-12). Trong chương Hai, thánh sử cho thấy rằng, các nhà chiêm tinh thuộc dân ngoại đi tìm vua mới giáng sinh để bái thờ, còn các nhà lãnh đạo tại Jerusalem tỏ ra lãnh đạm với Người, và còn đồng lõa với vua Herode để giết Người.

Vì thế, chúng ta đừng nên đọc gia phả của Đức Giêsu theo cặp mắt của cơ quan an ninh muốn truy tầm cặn kẽ gốc tích của Người. Thánh sử còn gói ghém nhiều dụng ý thần học trong đó nữa, đến nỗi có lúc phải gò ép các dữ kiện: “Từ tổ phụ Abraham đến vua David là 14 đời; từ vua David đến thời lưu đày ở Babylon là 14 đời; và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô cũng là 14 đời” (Mt 1,17). Con số 14 đời xem ra giả tạo khi áp dụng cho những thời kỳ dài ngắn khác nhau: từ tổ phụ Abraham (khoảng 1850) đến vua David (khoảng 1000) thời gian là 850 năm, từ vua David đến thời lưu đày ở Babylon (năm 598) là 400 năm, và từ thời lưu đày đến Đức Kitô là 600 năm. Làm sao những khoảng thời gian chênh lệch như vậy mà gồm 14 đời ngang nhau được? Để đếm trọn số 14, Matthew buộc lòng gạt bỏ nhiều tên, và dĩ nhiên việc lựa chọn những ai đáng loại không phải là không có lý do, thí dụ: vua Giơhôgiakim con của vua Giôsigia (2V 36 tt) vào thời lưu đày Babylon, (lẽ ra phải nhắc đến ở câu 11).[8]

Vấn đề chính yếu ở đây không phải là thống kê chính xác con số các thế hệ. Xem ra trọng tâm xoay quanh nhà vua David: vua David là thừa kế của lời hứa dành cho tổ phụ Abraham, và vua David được Thiên Chúa hứa sẽ thiết lập một triều đại muôn đời (xc. 2Sm 7,12-16). Lời hứa ấy vẫn tồn tại bất chấp cuộc lưu đày ở Babylon, và nay được thực hiện nơi Đức Giêsu, là “Con Vua David” (Mt 9,27; 12,23; 15,22; 20,30.31; 21,9.15; 22,41-45). Đức Giêsu trở nên Con Vua David qua móc xích của ông Giuse là con cháu David, như sẽ nói sau.

Do đó, theo các nhà chú giải, con số 14 mang tính cách biểu tượng, vì tổng cộng số thứ tự của các phụ âm ghép thành tên David trong chữ Hippri: DWD (4+6+4).[9]

Tóm lại, Thánh Matthew không chỉ liệt kê các dòng dõi tổ tiên của Đức Giêsu nhưng còn gói ghém một dụng ý khác nữa. Điều này có thể xác minh qua một chi tiết khác. Bản gia phả bắt đầu bằng danh từ “Genesis” (câu 1) có nghĩa là “sự sinh ra” (“Generatio”, chứ không chỉ là sách gia phả, gốc tích); danh từ này được lặp lại ở câu 18 (Iesu Christi autem generatio sic erat). Xâu chuỗi các thế hệ được liên kết với nhau qua động từ “sinh ra” (Generat): ông A sinh ông B; ông B sinh ông C,.v.v… từ câu 2 cho đến câu 16 (lặp lại 39 lần). Nhưng đến cuối thì xâu chuỗi bị gián đoạn: thay vì tiếp tục “ông Jacob sinh ông Giuse, ông Giuse sinh ông Giêsu”, Thánh Matthew lại viết: “ông Jacob sinh ông Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô” (câu 16). Trước sự thắc mắc đương nhiên của độc giả, thánh sử tìm cách giải thích: “sự sinh ra Đức Giêsu Kitô là như thế này” (câu 18). Đến đây, ông Giuse trở thành nhân vật hàng đầu: ông là con cháu vua David và truyền lại gia thế này cho Đức Giêsu, mặc dù ông không phải là cha của Đức Giêsu theo phương diện sinh lý.

III. TRUYỀN TIN CHO THÁNH GIUSE (1,18-25)

Đoạn văn này thường được phân tích từ phía Đức Maria, nhưng ít khi được nhìn từ phía ông Giuse. Dù sao, Thánh Luca nói đến thiên sứ Gabriel truyền tin cho Đức Maria về việc sinh hạ Đức Giêsu; còn Thánh Matthew nói đến việc thiên sứ truyền tin cho Thánh Giuse, không những để đánh tan một mối nghi ngờ nhưng còn mặc khải sứ mạng của ông trong mầu nhiệm Nhập thể. Thực vậy, việc truyền tin cho Thánh Giuse không chỉ nhằm giải thích nguồn gốc của sự kiện Đức Maria có thai, nhưng còn mời gọi ông hãy tham gia vào việc hoàn tất chương trình của Thiên Chúa, đó là Đấng Messia thuộc dòng vua David.

Trước khi đi vào nội dung, chúng ta nên nhớ rằng sách Tin Mừng của Thánh Matthew được viết cho dân Do Thái và sử dụng nhiều cách lập luận dựa theo nền văn hóa của họ. Người đọc phải làm quen với não trạng của họ, xét về mặt tín ngưỡng (dựa trên giao ước của Thiên Chúa với các tổ phụ), cũng như xét về phong tục xã hội. Sự hiểu biết tục lệ người Do Thái cần thiết để hiểu nhiều vấn đề liên quan đến hôn nhân giữa Thánh Giuse và Mẹ Maria.

Tại nhiều dân tộc, trước khi cử hành lễ thành hôn (lễ cưới) thì có lễ đính hôn (lễ hỏi). Giá trị pháp lý của việc đính hôn thay đổi tùy nơi tùy thời. Ngày nay, việc đính hôn chỉ mang tính cách một lời hứa danh dự, chứ không có giá trị ràng buộc như là việc thành hôn.[10] Tuy nhiên, trong xã hội Do Thái thời xưa, việc đính hôn không những đặt ra nghĩa vụ ràng buộc đôi bên phải tiến tới việc kết hôn, mà còn mang theo nghĩa vụ chung thủy với nhau nữa. Luật pháp coi hai người đính hôn như là “vợ”“chồng”. Vì thế, sự ngoại tình được coi như tội phạm ngay từ lúc đính hôn, chứ không phải từ lúc thành hôn (xc. Đnl 20,7; 22,23-25). Đàng khác, trong thời gian đính hôn, luật pháp cũng dự trù hai thủ tục để ly dị. Thủ tục thứ nhất mang tính cách công khai, khi người chồng tố cáo bà vợ ngoại tình, và như vậy bà phải chịu những hình phạt dành cho tôị ngoại tình (ném đá: xc. Ga 8,5). Thủ tục thứ hai mang tính cách tư riêng: trước mặt hai nhân chứng, ông trao cho bà một tờ tuyên bố từ hôn.

Chuyện xảy ra là: “bà Maria… đã đính hôn với ông Giuse; nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do Chúa Thánh Thần” (1,18). Thánh Matthew nói rằng, bà Maria chỉ mới đính hôn với ông Giuse mà thôi. Nên lưu ý là không tài liệu lịch sử nào nói đến tuổi tác của ông Giuse. Hình ảnh về ông Giuse đầu tóc bạc phơ là do ảnh hưởng của một ngụy thư “Tin Mừng tiên khởi Thánh Jacobe” sẽ nói trong chương tới. Cũng không có tài liệu nào cho biết hai người đã đính hôn với nhau từ hồi nào và chừng nào tính chuyện về chung sống với nhau. Dù sao, thì ông đã là chồng của bà Maria rồi (Mt 1,16.19) và bà là vợ (Mt 1,20). Bỗng nhiên, bà Maria đã mang thai. Theo lối hành văn của Matthew (1,19), ông Giuse không muốn làm to chuyện, và đi tới quyết định từ hôn theo thủ tục thứ hai nói trên đây. Tuy nhiên, lý do gì thúc đẩy ông hành động như vậy? Đây là đề tài tranh luận sôi nổi ngay từ thời các Giáo phụ.

A. Lý do ly dị

Nói chung, các ý kiến của các nhà chú giải được xếp thành hai nhóm: một nhóm cho rằng ông Giuse không biết gì về nguồn gốc siêu nhiên của việc bà Maria mang thai, vì thế ông đâm ra nghi ngờ; nhóm thứ hai chủ trương rằng ông đã rõ đầu đuôi sự việc, nhưng không biết phải xử trí thế nào.

1/. Dựa theo nhóm ý kiến thứ nhất (chẳng hạn các Giáo phụ: Giustino, Gioan Kim Khẩu, Ambrosio, Augustino, có lẽ chịu ảnh hưởng của “Tin Mừng tiên khởi Thánh Jacobe”), ông Giuse đã nghi ngờ về sự chung thủy của vợ mình, vì thế ông quyết định ly dị. Họ cũng nghĩ rằng, Đức Maria giữ thái độ thinh lặng, hoặc vì dè dặt khiêm tốn, hoặc vì biết rằng không thể nào thuyết phục được ông Giuse.


2/. Nhóm thứ hai (đại diện bởi thánh Hieronimo thời Giáo phụ, thánh Benardo và Thánh Thomas Aquinas thời Trung cổ) cho rằng, Thánh Giuse đã biết nguyên nhân khác thường của việc cưu mang của Đức Maria. Vào thời nay, ý kiến này được củng cố nhờ sự nghiên cứu ngữ học: Thánh Matthew viết rằng: “trước khi hai ông bà về chung sống với nhau, thì thấy bà có thai”, ở thể văn không có chủ từ. Như vậy, có thể là tác giả chỉ trưng dẫn sự kiện, chứ không khẳng định “ai đã thấy”? Hơn nữa, câu văn không dứt ở chỗ “thấy bà có thai”, nhưng còn tiếp tục “do Chúa Thánh Thần”. Phải chăng, dụng ý của Matthew ở đây là muốn đề cao một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết của bà Maria cũng như của ông Giuse?

Thánh sử không xác định bằng cách nào ông Giuse biết được vợ mình có thai: tại vì sự kiện trờ trờ ra đó? Hay là do họ hàng bên vợ kháo láo? Hoặc vì chính bà đã tâm sự với chồng về sự lúng túng của mình?

B. Ông Giuse là người công chính

“Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).

Tại sao ông Giuse được gọi là công chính?

1/. Những ai chủ trương ông đã nghi ngờ bà Maria ngoại tình thì giải thích “công chính” theo nghĩa là tôn trọng luật pháp (công minh chính trực). Nếu người vợ (dù chỉ mới đính hôn) phạm tội ngoại tình, thì chồng buộc phải từ hôn (xc. Đnl 22, 23-27). Ông ta có quyền lựa chọn một trong hai thủ tục như đã nói. Trường hợp này, ông Giuse chọn thủ tục tư riêng, bởi vì không muốn làm mất thanh danh của vợ. Như vậy, ông vừa tuân hành luật pháp, vừa tôn trọng sự công bằng với bà vợ (xét vì ông chưa nắm vững các tình tiết của câu chuyện).

2/. Tuy nhiên, các nhà chú giải cận đại muốn đào sâu vấn đề hơn nữa, nghĩa là tìm hiểu ý nghĩa của từ “công chính” (Dikaios) theo truyền thống Kinh Thánh. Hạn từ “công chính” được sử dụng nhiều lần trong Tin Mừng Matthew, áp dụng cho những người mong chờ Thiên Chúa thực hiện những lời hứa (Mt 13,17; 23,29), hoặc cho các môn đệ sẽ được gia nhập Nước Thiên Chúa (Mt 13,43.49; 25,37.46). Thực vậy, theo Kinh Thánh, người công chính là kẻ đi theo đường lối của Chúa, như sách Khôn Ngoan đã liệt kê những gương mẫu ở chương 10,4-20: Noe, Abraham, Lot, Jacob, Giuse. Thánh Vịnh ca ngợi người công chính vì họ sẽ lãnh được đất hứa (Tv 37,29), họ sẽ tươi tốt như cây dừa (Tv 92,12), họ sẽ được ánh sáng Chúa chiếu dọi (Tv 112,4).

Trong bối cảnh này, ông Giuse được gọi là “công chính” bởi vì ông mong đợi Chúa thực hiện những lời hứa. Ông sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Ngài. Dự tính muốn bỏ bà Maria cách kín đáo không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự của bà thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Ta có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lùi lại vì kính sợ, tựa như ông Moses đã cởi dép khi tiến đến bụi gai cháy rực (St 3,5), tựa như ông Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh (Is 6,5), tựa như ông Simon sau khi chứng kiến mẻ lưới lạ thường (Lc 5,8). Ông Giuse được biết là bà Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui.

Để củng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie[11] nhận xét rằng, cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ [mầu nhiệm], quyết định rời bỏ bà kín đáo”. Động từ “Deigmatisai” (ít được sử dụng trong tiếng Hy Lạp) tự nó chỉ có nghĩa là “thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng” (theo sự giải thích của Eusebio Cesarea), và tùy theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu), “bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt). Ông Giuse được bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này.

C. Sứ điệp của thiên sứ

Thánh Matthew mô tả việc thiên sứ hiện ra với ông Giuse dựa theo những khuôn mẫu trong Cựu Ước về việc ủy thác sứ mạng (chẳng hạn Giđêon Tl 6,11-24), hoặc tiên báo về tương lai của đứa trẻ (chẳng hạn Ismael trong St 16,11; Isaac trong St 17,19; Samson trong Tl 13,3-5.7).

– Trình thuật bắt đầu với việc gọi tên và danh hiệu mang theo một ơn gọi: “Này Giuse là con cháu David” (1,20), cũng tựa như trước đây: “Này Giđêon, người dũng sĩ” (Tl 6,12).

“Đừng sợ”. Tân Ước thường dùng những lời này mỗi lần thiên sứ hiện ra, chẳng hạn để loan báo sự sinh hạ của ông Gioan Tiền Hô và Đức Giêsu (Lc 1,13.30), để ủy thác cho các phụ nữ loan báo việc Chúa Phục sinh (Mt 28,5.10), để cổ động tinh thần cho Thánh Phaolô (Cv 18,9). Một cách tương tự như vậy, thiên sứ sắp sửa tỏ lộ cho ông Giuse một sứ mạng.

– Nội dung mặc khải: thiên sứ muốn nói gì với ông Giuse?

1/. Theo nhóm ý kiến thứ nhất, ông Giuse nghi ngờ về sự chung thủy của vợ mình bởi vì ông không biết nguồn gốc của bào thai mà vợ mình đang mang. Vì thế thiên sứ đến giải thích nguyên nhân ngõ hầu đánh tan sự ngộ nhận. Như vậy, nội dung của mặc khải là: “đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do Chúa Thánh Thần”.

2/. Tuy nhiên, lối giải thích ấy một đàng dựa trên giả thiết là ông Giuse nghi ngờ về vợ mình, đàng khác đã cắt ngang lời của thiên sứ. Sứ điệp không chỉ nhằm giải thích nguồn gốc của sự cưu mang, nhưng còn mang theo một sứ mạng về phía ông Giuse nữa: “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (1,21). Có lẽ ông Giuse đã biết là bà Maria mang thai do quyền năng Chúa Thánh Thần (chứ không phải vì ngoại tình), nhưng ông không biết phải xử trí thế nào, vì thế ông định tâm sẽ rút lui. Thiên sứ đến xác nhận rằng bà Maria mang thai do Chúa Thánh Thần; đồng thời bảo ông Giuse đừng rút lui nhưng cứ đưa bà Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng, đó là đặt tên cho con trẻ, nghĩa là làm cha của con trẻ.

D. Vai trò của ông Giuse

Qua lời của thiên sứ, ta thấy nổi bật hai vai trò của ông Giuse trong chương trình của Thiên Chúa: chồng của bà Maria và cha của Đức Giêsu.

1/. Ông Giuse là chồng của bà Maria (1,16.19.20)

Hai người tiếp tục thủ tục hôn phối: từ chỗ đính hôn đến chỗ kết hôn (Mt 1,24). Tuy nhiên, hai người không ăn ở với nhau: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai” (1,25). Điều này không nhất thiết hàm ngụ rằng sau khi sinh con, thì hai ông bà lại ăn ở với nhau! Tác giả chỉ muốn nói rằng Đức Giêsu sinh ra không do sự giao hợp thường tình, có thế thôi. Cụm từ “cho đến khi” không giả thiết một sự thay đổi tình trạng sau đó; chẳng hạn như, khi Kinh Thánh viết rằng, “bà Michal không có con cho đến khi chết” (2Sm 6,23), hoặc Đức Giêsu hứa sẽ hiện diện với các môn đệ cho đến ngày tận thế (Mt 28,20). Không ai tưởng tượng được rằng bà Michal sẽ có con sau khi chết, hoặc là Đức Giêsu chỉ hiện diện với các môn đệ cho đến ngày tận thế mà thôi!

2/. Ông Giuse là cha của Đức Giêsu

Thiên hạ nhìn nhận Đức Giêsu là “con ông Giuse” (Mt 13,55). Tuy Đức Giêsu được sinh ra không do sự giao hợp vợ chồng, nhưng ông Giuse thực sự là cha của Người, bởi vì ông là chồng của bà mẹ. Vai trò làm cha được biểu lộ qua việc “ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu” (1,25), cũng như những hành động sẽ nói tiếp theo. Ở đây, theo lời của sứ thần, ông cần phải làm cha của hài nhi bởi vì ông là “con cháu David”, nhờ vậy hài nhi Giêsu được nhận vào hàng miêu duệ vua David (Mt 1,16-17).

Hơn nữa, việc đặt tên cho con trẻ là Giêsu không chỉ là một hành vi hộ tịch (cha đặt tên cho con), mà còn là một hành vi đức tin. Con trẻ sinh ra được xưng là “Giêsu”, “vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,22).

“Tất cả sự việc này đã xảy ra là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là: Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (1,23)
. Đoạn văn này được trích từ ngôn sứ Isaia 7,14. Thường người ta chú ý đến ý tưởng “một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai” và từ đó nảy ra nhiều cuộc tranh luận, bởi vì nguyên bản Hippri không nói đến “trinh nữ” (betulah) mà chỉ là “thiếu nữ” (almah: một cô gái). Bản dịch Hy Lạp chuyển nghĩa là “trinh nữ”.

Tuy nhiên, cũng có nhà chú giải nêu thắc mắc: đâu là điểm nhấn của Matthew? Có phải là “trinh nữ thụ thai”, hay tên con trẻ là “Emmanuel” – Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Có lý do để nghiêng về vế thứ hai, bởi vì Tin Mừng Matthew kết thúc với lời tuyên xưng rằng: “Này, Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28): Đức Giêsu đích thực là Emmanuel, bởi vì là Thiên Chúa đến ở với nhân loại kể từ lúc nhập thể cho đến tận cùng lịch sử. Dù sao đi nữa, Thánh Matthew không trích dẫn nguyên văn lời Isaia, nhưng đã thích nghi với thực tại mà vị ngôn sứ sống trước đó 8 thế kỷ không thể nào mường tượng được. Có lẽ, ông Isaia không thể tưởng tượng nổi một trinh nữ sinh con! Điều này chỉ có thể xảy đến do sự can thiệp độc đáo của Thiên Chúa. Các Kitô hữu đã tin như vậy; rồi từ niềm xác tín đó, họ đã đọc lại Cựu Ước và khám phá ra những sự chuẩn bị mà nay trở nên trọn vẹn. Phương pháp này gặp thấy nhiều lần trong Tân Ước, đặc biệt nơi Tin Mừng Matthew (41 lần). Như đã nói trên đây, trong hai chương đầu, Matthew trưng dẫn 5 “lời” của Cựu Ước, nhưng không hoàn toàn lấy nguyên văn: có lúc ông sửa đổi đôi chút (Mt 1,23 = Is 7,14), có lúc ghép hai ba câu làm một (thí dụ: Mt 2,6 = Mk 5,1tt + 2 Sm 5,2. Mt 2,22 = Tl 13,5.7+ Is 11,1).

Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở mục 4 (những đoạn văn Cựu Ước nói về Thánh Giuse).

IV. CÁC NHÀ CHIÊM TINH (2,1-12)

Thánh Matthew mở đầu sách Tin Mừng với việc khẳng định căn cước của Đức Giêsu là “con cháu vua David và con cháu tổ phụ Abraham”. Xem ra, chương Một được dành để chứng tỏ sự liên hệ của Đức Giêsu với David (vua dân Do Thái), và chương Hai được dành bàn đến mối liên hệ với ông Abraham (tổ phụ của muôn dân).

Chương hai mở đầu với biến cố các nhà chiêm tinh từ bên Đông Phương đến bái lạy “Vua dân Do Thái” vừa mới sinh (2,2). Nên lưu ý, bản văn không nói đến “ba vua”: họ không phải là vua, cũng không chỉ có ba; con số này được suy đoán từ ba lễ phẩm mang đến (vàng, nhũ hương, mộc dược).[12] Họ được gọi là “Magus”, một danh từ mang nhiều ý nghĩa: các lãnh đạo tôn giáo (đạo sĩ), những hiền nhân quân tử, các nhà thiên văn. Họ đến từ Đông Phương (xét theo địa lý của Palestina, nghĩa là có thể từ Arabia, Syria, hoặc Babylonia). Họ đã nhận được một tín hiệu từ một ngôi sao mọc lên: đã có nhiều bút mực chảy ra để xác định bản chất của ngôi sao kỳ diệu này (sao chổi, chòm sao, hay chỉ là sao tưởng tượng?).[13] Những vấn đề này không quan trọng lắm đối với vấn đề đang bàn, bởi vì có lẽ dụng ý của Matthew nằm ở chỗ khác, đó là so sánh thái độ của cấp lãnh đạo dân Do Thái với các lãnh đạo của dân ngoại.

Như đã biết, người Do Thái đang mong chờ Đấng Messia đến để tái lập vương triều David, giải thoát dân tộc khỏi ách nô lệ ngoại bang (xc. Cv 1,6). Tuy nhiên, lúc ấy, tại Jerusalem, vương quyền nắm trong tay triều đại Herode, dưới quyền kiểm soát của chính quyền Roma. Ông Herode coi mình là “vua” chính thức (Mt 2,3), và không thể nào dung túng cho bất cứ ai đe dọa ngai báu của mình. Tuy các giới lãnh đạo tôn giáo và kinh sư tại Jerusalem cũng biết đến các sấm ngôn, nhưng họ đứng về phía vua Herode, cho nên họ không đếm xỉa gì đến biến cố Chúa giáng sinh. Ngược lại, các nhà chiêm tinh thuộc dân ngoại thì lại háo hức đi tìm kiếm Chúa để thờ lạy. Việc chính quyền Jerusalem khai trừ “vua người Do Thái” mới ra đời báo trước việc tẩy chay “Vua người Do Thái” mai sau, đưa đến việc đóng đinh Người trên thập giá (Mt 27,37).

Trong câu chuyện này, Thánh Giuse đứng ở hậu trường. Tên của ông không được nhắc đến, bởi khi ở câu 11, thánh sử viết: “Họ vào nhà, thấy Hài nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người”. Hiểu ngậm là Thánh Giuse cũng hiện diện lúc đó, bởi vì cụm từ “Hài nhi và mẹ Người” được dùng bốn lần trong chương Hai (câu 13.14.20.21) bên cạnh Thánh Giuse. Tuy nhiên, thiết tưởng nên ghi nhận sự hiện diện của Thánh Giuse qua một lối hành văn khác, đó là ở chương Một, ông định bỏ bà Maria cách “kín đáo” (1,19); còn bây giờ vua Herode “kín đáo” tra vấn các nhà chiêm tinh (2,7). Cả hai hành vi diễn ra cách kín đáo (bí mật), nhưng một bên là vì muốn tìm hiểu ý Chúa, bên kia là trái ngược ý Chúa. Sự đối chọi này tăng thêm ý nghĩa khi bước sang biến cố kế tiếp, khi âm mưu của vua Herode bị ông Giuse phá vỡ do một mặc khải từ trời.

V. LÁNH NẠN SANG AI CẬP (2,13-18)

Trong những đoạn tiếp của chương Hai, ông Giuse trở thành nhân vật chính, với vai trò là bảo vệ “hài nhi và mẹ Người” (Mt 2,13.19.22). Ông tỏ ra thực sự là “người công chính” mau mắn tuân hành ý Chúa. Trước đây, ông vâng theo ý Chúa đón bà Maria về làm vợ; bây giờ ông vâng theo ý Chúa đưa thánh gia sang nước Ai Cập, rồi từ Ai Cập trở về quê hương, và đến định cư tại Nazareth.


Tại sao lánh nạn sang Ai Cập mà không sang nước khác? Đây không chỉ là vấn đề an ninh bản thân nhưng còn nằm trong kế hoạch cứu độ, như thánh sử Matthew giải thích câu Kinh Thánh: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập” (Hs 11,1). Ngôn sứ Hoses nói đến dân Israel được Thiên Chúa thương yêu như đứa con và dẫn ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập; nhưng Matthew áp dụng cho Đức Giêsu là Con Thiên Chúa: cũng như Moses không những cứu dân mình ra khỏi cảnh nô lệ mà còn đưa vào đất Israel, Đức Giêsu – Thiên Chúa cứu độ – là ông Moses mới, lãnh đạo đoàn dân được cứu thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi và đưa vào Nước Trời (Mt 2,21). Đó là kế hoạch của Thiên Chúa, và Thánh Giuse góp phần vào sự thực hiện chương trình này.

VI. TRỞ VỀ NAZARETH (2,19-23)

Biến cố cuối cùng được Thánh Matthew nói trong chương Hai là ông Giuse đưa thánh gia về quê hương Israel và định cư tại Nazareth:

“Sau khi vua Herode băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai Cập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài nhi đã chết rồi”. Ông liền chỗi dậy đưa Hài nhi và mẹ Người về đất Israel. Nhưng vì nghe biết Arkhêlao đã kế vị vua cha là Herode, cai trị miền Judea, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilee, và đến ở tại một thành kia gọi là Nazareth, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Nazareth”
.

Đoạn văn này hàm chứa hai lần thiên sứ báo mộng tương ứng với hai hành động của ông Giuse: trước hết là trở về quê hương, kế đó là định cư ở Nazareth.

Trước đây, ông Giuse đã đưa thánh gia từ Bethlehem lánh nạn sang Ai Cập. Vì thế khi tính chuyện hồi hương thì đương nhiên là trở về quê cũ ở miền Judea (miền Nam Palestin). Tuy nhiên, ý Chúa lại định cách khác: ông Giuse sẽ về Nazareth, ở miền Galilee (miền Bắc Palestin). Tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa.

Nên lưu ý, các nhà chú giải Kinh Thánh không tìm thấy được một câu nào trong Cựu Ước nói là “Người sẽ được gọi là người Nazareth”:

– Vài học giả nghĩ rằng, “người Nazareth” là một biến thể của tính từ “Nazir”: kẻ được thánh hiến, giống như ông Samson được thánh hiến ngay từ lòng mẹ (Tl 13,5; 16,17); hoặc “Neser”: chồi lộc, được nói đến trong Is 11,1 (Đấng Messia thuộc chồi Jesse là thân sinh của David).

– Ý kiến khác cho rằng, thánh sử Matthew không nghĩ tới một câu văn cụ thể nào trong Kinh Thánh cho bằng toàn thể kế hoạch của Thiên Chúa nói chung: Đức Giêsu sinh ra tại Bethlehem, thành phố của vua David, nhưng sinh sống tại Nazareth, miền Galilee thuộc dân ngoại.

Dù sao, biệt hiệu của Người là “Giêsu Nazareth” (Mt 21,11; 26,71; xc Cv 22,8; 24,5; 26,9). Đối với người đương thời, Nazareth là một chốn vô danh tiểu tốt, và đôi khi còn bị khinh miệt nữa (Mc 14,67). Vì thế họ không thể nào chấp nhận Đấng Messia xuất thân từ Nazareth được (Ga 1,46; 7,41-42.52). Điều trớ trêu là chính cư dân Nazareth cũng chẳng có thiện cảm với Đức Giêsu (Mt 13,53-58; Mc 6,1-6; Lc 4,14.22-29).

Ông Giuse lẳng lặng thi hành ý Chúa, tuy dù ông không am tường tất cả mọi tình tiết. Từ chương Ba trở đi, Thánh Matthew chuyển sang giai đoạn hoạt động công khai của Đức Giêsu. Đến đây vai trò của ông Giuse trở nên lu mờ. Không ai biết được ông qua đời lúc nào. Tên ông còn được nhắc đến một lần nữa ở chương 13, khi thiên hạ thắc mắc về Đức Giêsu: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc sao?”.

Qua đó, chúng ta biết được Thánh Giuse làm nghề “thợ mộc”. Đoạn văn tương tự ở Mc 6,3 cho biết là Đức Giêsu cũng làm thợ mộc, và như vậy là Người được ông Giuse truyền nghề. Nên biết là, “thợ mộc” (Hy Lạp: Tektôn) đã được các Giáo phụ giải thích theo nhiều nghĩa: thợ mộc, thợ rèn, thợ nề (faber lignarius, o ferrarius, o morarius); tuy rằng, ý kiến thông thường cho rằng Thánh Giuse làm thợ mộc, thậm chí Thánh Justino viết rằng: “Người đẽo cày và ách cho thú vật” (Dial. 88: PG 6,888). Dù sao, vào thời bấy giờ, “thợ mộc” không chỉ được xếp vào hạng “thủ công”, mà nhiều người thuộc hạng “sĩ” cũng làm thợ mộc, chẳng hạn Rabbi Shammai. Vì thế không lạ gì khi dân Israel bị phát lưu sang Babylon, các thợ mộc cũng bị bắt cùng với hàng quý tộc (Gr 24,1).

Theo ngụy thư “Chuyện ly trần của ông Giuse thợ mộc”, thánh nhân qua đời khi đã cao niên (111 tuổi) lúc Đức Giêsu sắp lên 20 tuổi! Thánh Matthew không đả động gì đến cuộc ly trần của ông Giuse có lẽ vì thấy nhiệm vụ của Người đã hoàn tất. Từ nay, Đức Giêsu sẽ bắt đầu mặc khải Tin Mừng cứu độ, mà chủ thể là “Thiên Chúa là Cha trên trời”: các độc giả hãy cần dồn chú ý vào người Cha đó (xc Mt 23,9).

VII. KẾT LUẬN

Trong hai chương đầu của Tin Mừng Thánh Matthew, ta thấy Thánh Giuse giữ một vai trò quan trọng trong mầu nhiệm Nhập thể. Ông được Chúa gọi tham gia vào việc Chúa Cứu Thế ra đời cũng như che chở Hài nhi trong thời thơ ấu:

– Bằng cách đưa bà Maria về sống chung: ông trở thành chồng của bà, và cha của Đức Giêsu, nhờ thế Người trở nên con cháu vua David;

– Bằng cách đặt tên cho Hài nhi là Giêsu, mặc khải chân tướng của Người như là “Thiên Chúa cứu chữa”, “Thiên Chúa ở với chúng ta” (Emmanuel).

– Bằng cách bảo vệ Đức Giêsu khỏi bị vua Herode ám sát qua việc đưa thánh gia lánh nạn bên Ai Cập, rồi đưa về định cư tại Nazareth, nhờ thế Đức Giêsu trở thành ông Moses mới và mang biệt hiệu “Giêsu Nazareth”.

Tóm lại, ông Giuse đã đóng vai trò quan trọng trong việc “nặn hình” Đức Giêsu theo chương trình cứu chuộc. Tuy nhiên, ông đã thi hành sứ mạng trong tinh thần vâng phục đức tin như một tôi trung của Thiên Chúa. Đối lại, vinh dự của ông ở chỗ làm “chồng của bà Maria” (Mt 1,16.19), và nhất là Đức Giêsu được coi là “con ông Giuse” (xc. Lc 4,22; Ga 6,42).

***

MỤC 2: TIN MỪNG THÁNH LUCA

Không thiếu người đã ví Tin Mừng Matthew và Tin Mừng Luca như là “Tin Mừng về Thánh Giuse”“Tin Mừng về Đức Maria”. Sự đối chiếu ấy dựa trên nhiều chi tiết, đặc biệt khi so sánh hai cảnh truyền tin của thiên sứ nói ở chương đầu tiên. Tuy nhiên, chưa chắc đó là dụng ý của hai thánh sử. Như đã thấy trong Mục 1 vừa rồi, có lẽ Thánh Matthew muốn trình bày Đức Giêsu như là con cháu David, con cháu Abraham, Emmanuel; còn ông Giuse chỉ là một chứng nhân cho chân lý ấy. Còn dụng ý của hai chương đầu Tin Mừng Luca là gì? Một vài nhà chú giải cho rằng, trọng tâm nằm ở chỗ đối chiếu hai nhân vật: Gioan tiền hô và Đức Giêsu, qua cảnh truyền tin (1,5-25 // 26-38) và sinh hạ (1,57-66 // 2,1-21), và liên kết với nhau qua cảnh Đức Maria đi thăm viếng bà Elisabeth (1,39-56). Dù nói thế nào đi nữa, chắc là Luca không hề muốn so sánh Đức Maria với Thánh Giuse. Ở đây, chúng tôi chỉ giới hạn vào việc nghiên cứu vai trò của Thánh Giuse mà thôi.[14]

I. NHẬN XÉT TỔNG QUÁT

Trong Tin Mừng Luca, Thánh Giuse không được nổi bật như trong Tin Mừng Matthew.

A. Về văn bản

Sau đây là những đoạn văn có liên quan đến ông Giuse:

– Ở 1,27, trong cảnh truyền tin, Đức Maria được giới thiệu như là “một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse”.

– Ở chương Hai, Thánh Giuse thường xuất hiện bên cạnh Đức Maria, và đôi khi được gọi chung ở số nhiều là: “họ”, “hai ông bà”.

– Sang chương Ba, khi bước vào cuộc đời công khai của Đức Giêsu, ông Giuse được nhắc đến trong bản gia phả: “Đức Giêsu được coi là con ông Giuse, [ông Giuse là] con ông Hêli, [ông Hêli là] con ông Matthat,.v.v…” (Lc 3,23).

– Tại hội đường Nazareth, sau khi nghe bài giảng ra mắt, người ta bàn tán với nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4,22).

B. Những điểm tương đồng

Hai thánh sử đồng nhất ở vài điểm căn bản liên quan đến đạo lý về việc cưu mang do quyền năng Thánh Thần:

– Ông Giuse thuộc dòng tộc David

– Ông Giuse đã đính hôn với bà Maria

– Bà Maria có thai trước khi hai người sống chung với nhau

– Tên của Hài Nhi do thiên sứ chỉ định: Giêsu, Cứu thế (Mt 1,21 = Lc 2,11), Con Thiên Chúa (Mt 2,15 = Lc 1,35)

– Đức Giêsu sinh tại Bethlehem, dưới thời vua Herode (Mt 2,1 = Lc 1,5)

– Đức Giêsu trải qua thời thơ ấu ở Nazareth

C. Những điểm khác biệt

Có nhiều điểm khác biệt giữa hai thánh sử, đôi khi có thể xem như bổ túc cho nhau, nhưng đôi khi xem ra tương phản nhau.

1/. Luca cung cấp vài dữ kiện bổ túc cho Matthew, chẳng hạn như cuộc giáng sinh của Đức Giêsu tại Bethlehem và các mục đồng đến thờ lạy, việc cắt bì, dâng con trong đền thờ, và việc Hài nhi thất lạc trong đền thờ.

2/. Tuy nhiên, có vài chi tiết xem ra trái ngược với Matthew và đã gây ra nhiều tranh luận, chẳng hạn như:

– Nguyên quán và sinh quán của Đức Giêsu

Theo Matthew, xem ra nguyên quán và sinh quán của Đức Giêsu là Bethlehem, nơi mà ông Giuse đã có nhà ở (Mt 2,11); và thánh gia chỉ đến định cư ở Nazareth sau khi được thiên sứ chỉ định khi từ Ai Cập trở về. Theo Luca, nguyên quán của Thánh Giuse và Đức Maria là Nazareth; hai ông bà về Bethlehem để kiểm tra dân số, và không tìm được chỗ trọ. Bà Maria sinh Đức Giêsu tại Bethlehem, và không rõ thánh gia trở về Nazareth lúc nào. Đàng khác, Luca không đả động đến việc lánh nạn bên Ai Cập.

– Liên lạc với đền thờ

Theo Luca, 40 ngày sau khi sinh con, Thánh Giuse và Đức Mẹ đem Đức Giêsu lên đền thờ để tiến dâng cho Thiên Chúa. Điều này không được Matthew nói tới. Trái lại, dân cư ở Jerusalem xôn xao khi thấy các nhà chiêm tinh đến hỏi thăm tin tức về Vua Do Thái vừa mới ra đời, gây ra cảnh tàn sát các hài nhi ở Bethlehem, buộc lòng thánh gia phải lánh nạn. Luca nói đến việc Đức Giêsu khi lên 12 tuổi thì đi theo cha mẹ từ Nazareth lên đền thờ. Phải chăng như vậy, thời gian lánh nạn ở Ai Cập không quá lâu dài?

Dĩ nhiên, các nhà chú giải Kinh Thánh đã đưa ra nhiều giả thuyết để giải thích những sự khác biệt giữa hai thánh sử. Có lẽ hai vị đã thu thập dữ liệu từ hai nguồn độc lập (Matthew từ phía ông Giuse, và Luca từ phía Đức Maria). Họ đã không tìm cách trao đổi để kiểm chứng. Cả hai bản văn đã được nhận vào quy điển Sách Thánh. Chúng ta cần chấp nhận tất cả hai bản văn và tìm cách dung hợp các sự khác biệt trong tầm mức có thể.

II. VĂN BẢN

Chúng ta sẽ bắt đầu khảo sát bản gia phả ở chương Ba, rồi sau đó trở lại thứ tự các biến cố nói ở chương Một và chương Hai: truyền tin cho Đức Maria, giáng sinh tại Bethlehem, cắt bì, dâng con trong đền thờ, lạc con trong đền thờ.

A. Gia phả

Giữa hai bản gia phả theo Matthew và theo Luca, có nhiều sự khác biệt không nhỏ và chắc hẳn không ngoài ý muốn của tác giả.

1/. Bối cảnh

– Tin Mừng Matthew mở đầu bằng gia phả của Đức Giêsu, “con cháu vua David”, “con cháu tổ phụ Abraham” (1,1). Như đã thấy, xem ra điểm nhấn là Đức Giêsu là con cháu vua David, là Đấng Messia được hứa cho các tổ phụ. Thứ tự đi từ trên xuống dưới, từ Abraham đến ông Giuse.

– Ở Tin Mừng Luca, bản gia phả được thuật lại ở chương Ba, vào lúc Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, sau khi lãnh phép rửa tại sông Jordan: “Khi Đức Giêsu khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ tưởng người là con ông Giuse, con ông Hêli, con ông Matthat,.v.v…” theo thứ tự từ dưới lên trên, mãi đến tận ông Adam.

2/. Chiều dài

Đừng kể thứ tự từ trên xuống (Mt: ông A sinh ông B), hoặc từ dưới lên (Lc: ông A con ông B), điều khác biệt quan trọng là ông Luca lên mãi tới nguyên tổ nhân loại là ông Adam, “con của Thiên Chúa” (3,38). Như vậy, tầm nhìn của Luca rộng lớn hơn, khi cho thấy Đức Giêsu thuộc về dòng dõi của tất cả loài người, chứ không riêng một dân tộc nào. Điều này không những nằm trong thần học về ơn cứu độ phổ quát, nhưng còn được nêu bật trong bối cảnh mà gia phả được xen vào, nghĩa là tại sông Jordan. Một đàng ông Gioan Tiền Hô cảnh cáo đồng bào rằng: “Các anh đừng vội nghĩ bụng rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Abraham”, vì tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham” (3,8). Cách đó không xa, khi Đức Giêsu chịu phép rửa thì có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (3,22). Chân tướng của Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” (Lc 1,35), và điều này quan trọng hơn biệt hiệu “con cháu vua David” hay “con cháu tổ phụ Abraham” nơi ông Matthew.

– Thánh Luca viết tác phẩm dành cho dân ngoại, vì thế ông không bận tâm đến việc móc nối với những lời hứa dành cho vua David và dân tộc Israel.[15] Tuy nhiên, thánh sử tôn trọng sự thật về Đức Giêsu thuộc dòng dõi vua David. Khi truyền tin cho Đức Maria, thiên sứ nói: “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng của David, tổ tiên Người” (1,33). Thiên sứ báo tin cho các mục đồng rằng: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua David” (2,11). Cũng vì lý do đó mà ông Giuse cùng với bà Maria phải rời Nazareth về Bethlehem để khai tên tuổi (2,4). Bằng cách nào Đức Giêsu thuộc về dòng dõi vua David? Chắc chắn là không phải do họ mẹ (Đức Maria) như sách “Tiền Phúc Âm Thánh Jacobe” nghĩ, nhưng là do ông Giuse. Ông Giuse là con cháu vua David (3,23.31) và truyền lại dòng họ này cho Đức Giêsu. Bằng cách nào? Câu trả lời cũng tương tự như ông Matthew, đó là ông Giuse là chồng của bà Maria, kẻ cưu mang Đức Giêsu do quyền năng của Chúa Thánh Thần.

– Bản gia phả của Matthew được chia làm ba nhóm, mỗi nhóm 14 đời. Bản gia phả của Luca thì liệt kê 77 hàng tổ tiên lên tới Thiên Chúa. Hẳn là số 77 mang tính cách biểu tượng, chứ làm sao thu thập đầy đủ tên tuổi các bậc tổ tiên của loài người được? Con số 77 là biểu tượng cho cái gì? Có người cho rằng, số 77 được ghép bởi hai số 7 kề nhau: số 7 tượng trưng cho sự hoàn thiện; có người tìm cách phân biệt 11 nhóm (3+3+2+3), mỗi nhóm 7 người.

– Trong hai bản danh sách, chỉ có sự trùng hợp từ ông Abraham đến vua David. Sau đó, Matthew thuật lại hậu duệ vua David từ phía ông Salomon (1Sbn 3,10-19), còn Luca thì theo ông Nathan (xc. 2Sm 5,14; 1Sbn 3,5). Hai danh sách gặp nhau nơi ông Santiel và Zerubbabel. Nhưng theo Matthew, từ Salomon đến Santiel có 13 đời, và từ Zerubbabel đến Đức Giêsu là 10 đời; nhưng theo Luca, từ Nathan đến Santiel có 19 đời, và từ Zerubbabel đến Đức Giêsu là 19 đời.

– Tên thân sinh của Thánh Giuse là ông Jacob (Mt) hay Hêli (Lc)? Có lẽ Matthew muốn móc nối Thánh Giuse với tổ phụ Giuse trong Cựu Ước, do đó thân sinh của cả hai trùng tên với nhau. Còn Luca có lẽ móc nối với vị tư tế Hêli vì liên tưởng đến câu chuyện của bà Anna và cậu Samuel, với nhiều nét tương tự với bà Elizabeth và cậu Gioan.[16] Ngoài ra, theo một cách giải thích từ thời Giáo phụ do Eusebio Cesarea kể lại,[17] Jacob và Hêli là hai anh em cùng mẹ khác cha: bà Estha lấy ông Matthan (thuộc tộc Salomon) sinh ra Jacob; sau khi ông Matthan chết, bà tái giá với ông Matthat (thuộc tộc Nathan) và sinh ra Hêli. Vì Hêli chết mà không có con, nên Jacob lấy vợ của Hêli (theo luật Levir: xc Mt 22,24) và sinh ra Giuse.

B. Truyền tin cho Đức Maria (1,26-38)

Như đã nói trên đây, Luca không có ý đối chọi cảnh truyền tin cho Đức Maria với cảnh truyền tin cho ông Giuse ở Tin Mừng Matthew. Đúng hơn, Luca đối chiếu hai cảnh truyền tin được nói trong chương Một, đó là cho ông Zacaria và cho Đức Maria:

– Truyền tin cho ông Zacaria, một tư tế, diễn ra ở đền thờ tại thủ đô Jerusalem (1,11-22). Bà vợ ông son sẻ nhưng sẽ sinh ra một người con mang sứ mạng chuẩn bị lòng dân đón Chúa. Ông Zacaria nêu thắc mắc.

– Truyền tin cho Đức Maria, một thiếu nữ tầm thường, ở làng Nazareth miền Galilee (1,26-38). Cô là một trinh nữ, nhưng sẽ sinh ra một người con do quyền năng Thánh Thần, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Maria thuận nhận làm theo ý Chúa.

Xét về địa vị xã hội, Đức Maria kém ông Zacaria; nhưng xét về lòng tin thì thứ tự đảo ngược. Sự chênh lệch càng lớn hơn nữa khi so sánh bản thân ông Gioan Tiền Hô và Đức Giêsu.

Trong cảnh Truyền tin cho Đức Maria, ông Giuse được nêu đích danh, bởi vì “thiên sứ Gabriel đến một thành miền Galilee gọi là Nazareth gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse thuộc nhà David” (1,26-27). Nơi Luca, ta thấy hai dữ kiện trùng hợp với Matthew: bà Maria đã đính hôn với ông Giuse, và hai người chưa ăn ở với nhau (xc. 1,34). Tuy nhiên, có điểm khác biệt là sau đó, Luca không nói gì về phản ứng của ông Giuse. Cho đến ngày lên đường về Bethlehem để kiểm tra dân số, Đức Maria vẫn còn trong tình trạng đính hôn (Lc 2,5). Luca không bao giờ gọi Maria là “vợ ông Giuse” như Matthew (Mt 1,20.24). Tuy nhiên, như chúng ta biết, theo luật Do Thái đương thời, những người đính hôn cũng có những nghĩa vụ pháp lý như những người kết hôn. Lý do của cuộc đính hôn với Giuse đã được nêu rõ khi nói rằng, “thuộc nhà David” (1,26), và vì thế sẽ về Bethlehem để kiểm tra dân số, tại đây Chúa Cứu Thế giáng sinh (2,4.11).

Thoạt tiên, câu hỏi của Đức Maria với sứ thần mang tính mâu thuẫn. Tại sao cô đã đính hôn rồi mà còn hỏi: “Việc ấy xảy ra thế nào, vì tôi không biết người đàn ông?” (Lc 1,34). Tuy nhiên, động từ “biết” trong ngôn ngữ Hippri được hiểu về việc giao hợp, chứ không phải là biết tên biết tuổi mà thôi. Hai người đã đính hôn, nhưng chưa sống chung với nhau.

Đàng khác, cả hai thánh sử Luca và Matthew đều trùng hợp ở nội dung căn bản, đó là Đức Maria cưu mang Đức Giêsu do quyền năng Chúa Thánh Thần (Lc 1,35 // Mt 1,18.20).[18]

C. Giáng sinh (2,1-20)

Như đã nói trên, Thánh Luca không gọi bà Maria là “vợ” của ông Giuse: đây là điều khác với Matthew. Mặt khác, Thánh Luca không ngại để cho Thánh Giuse làm “cha” của Đức Giêsu, điều mà Matthew chỉ hiểu ngậm.

Dù sao, cho đến ngày sinh Đức Giêsu, Đức Maria vẫn chỉ là người “đính hôn” với ông Giuse (2,5). Tuy nhiên, trong chương Hai này, mối tương quan giữa hai người đã được diễn tả như là “vợ chồng”“cha mẹ” đi đôi với nhau.

– Câu 6: “Khi hai người (= họ) đang ở đó (Bethlehem) thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa”.
– Câu 7: “Bà… đặt con nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà (= họ) không tìm được chỗ trong nhà trọ”.
– Câu 16: “Các mục đồng gặp bà Maria và ông Giuse, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ”.
– Câu 22: “Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Moses, bà Maria và ông Giuse đem con lên Jerusalem”.
– Câu 27: “Vào lúc cha mẹ Hài nhi Giêsu đem con tới… thì ông Simeon ẵm lấy”.
– Câu 33: “Cha mẹ Hài nhi ngạc nhiên về những lời ông Simeon nói”.
– Câu 39: “Khi hai ông bà (= họ) đã làm xong mọi việc… thì trở về Nazareth”.
– Câu 41-46: “Cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Jerusalem… Họ cùng lên đền… Họ trở về… Đức Giêsu ở lại trong đền thờ mà cha mẹ chẳng hay biết. Họ cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành… Không thấy con đâu, họ trở lại Jerusalem. Sau ba ngày, họ mới tìm thấy con trong đền thờ”.
– Câu 48-51: “Khi thấy con, họ sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: Con ơi, sao lại xử với cha mẹ (= chúng tôi) như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ (= tôi) đây đã phải cực lòng tìm con! Người đáp: Sao cha mẹ (= các ngài) lại tìm con? Cha mẹ (= các ngài) không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? Nhưng họ không hiểu lời Người vừa nói. Sau đó, Người đi xuống cùng với họ, trở về Nazareth và hằng vâng phục họ”.

Ở câu 7, Luca viết rằng, bà Maria sinh “con trai đầu lòng”. Điều này không giả thiết rằng, sau đó bà còn sinh nhiều con nữa! Thánh sử nhắc đến việc sinh con trai đầu lòng không chỉ vì muốn ghi nhận một hiện tượng sinh lý của người phụ nữ (lần đầu tiên sinh con) cho bằng dẫn nhập vào một biến cố khác sẽ nói sau, đó là sự dâng con trong đền thờ: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của Thánh, dành cho Chúa” (2,23).

D. Cắt bì và đặt tên

Việc cắt bì và đặt tên cho Đức Giêsu chỉ được Luca nói đến trong một câu (2,21) đang khi sự việc tương tự của ông Gioan Tiền Hô lại được nói dài hơn (1,59-66).

Thoạt tiên, xem ra thánh sử chỉ muốn thuật lại sự kiện này để chứng tỏ cha mẹ của hai hài nhi đều là những người nghiêm túc tuân hành luật lệ (xc. St 17,12tt; Lv 12,3). Tuy nhiên, điều quan trọng nằm ở chỗ đặt tên cho Hài nhi, tên gọi nói lên sứ mạng tương lai. Ở đây, chúng ta chỉ chú ý đến việc cắt bì và đặt tên cho Đức Giêsu mà thôi.

Ai chủ sự việc cắt bì? Thánh Luca không nói, có lẽ vì không quan trọng.[19] Trong lịch sử Do Thái, thường là người cha (chẳng hạn ông Abraham cắt bì cho Isaac: St 21,4), nhưng đôi khi là bà mẹ (Zippora cắt bì cho con của ông Moses: Xh 4,25), hoặc một người nào khác.

Việc đặt tên mới thực sự là điều chủ yếu trong câu này: “Hài nhi được đặt tên là Giêsu; đó là tên mà sứ thần đã đặt trước khi Hài nhi thành thai trong lòng mẹ”. Câu văn được đặt ở thể thụ động, và không rõ ai giữ vai chủ động. Theo Matthew, thì ông Giuse đặt tên cho Hài nhi (1,21.25). Còn theo Luca, thì việc đặt tên xem ra được thiên sứ giao cho Đức Maria vào lúc truyền tin (1,31), cũng tương tự như việc đặt tên cho Gioan Tiền Hô được giao cho ông Zacaria (1,13.63). Tuy nhiên, xét vì cả cha lẫn mẹ (bà Elizabeth: 1,60) đều tham gia vào việc đặt tên cho Gioan, ta có thể suy đoán rằng, việc đặt tên cho Đức Giêsu cũng có sự tham gia của “hai ông bà”, theo như mạch văn của toàn thể chương Hai, mà chúng ta đã có dịp nhận xét. Xem ra vấn đề người chủ sự việc đặt tên không quan trọng cho bằng việc tuân hành một chỉ thị từ trời.

Nên lưu ý là Luca không giải thích ý nghĩa của tên “Giêsu” như là Matthew (1,21: “Thiên Chúa cứu dân Người khỏi tội lỗi”).

E. Dâng Con trong đền thờ (2,22-35)

Các nhà chú giải Kinh Thánh đã ghi nhận một chi tiết khác thường trong trình thuật này, khi Luca viết rằng: “Khi đã đến kỳ thanh tẩy của họ theo luật Moses, bà Maria và ông Giuse đem con lên đền thờ Jerusalem”. Tại sao nói đến sự thanh tẩy của họ, nghĩa là của hai ông bà, trong khi luật thanh tẩy của Moses chỉ ràng buộc bà mẹ (Lv 12,1-8)?

Có ý kiến cho rằng, trong Tân Ước (bằng tiếng Hy Lạp), danh từ “thanh tẩy” (Katharismos) bao hàm một nội dung rộng rãi (Mc 1,44; Lc 5,14; Ga 2,6; 3,25; Dt 1,3; 2Pr 1,9), chứ không chỉ giới hạn vào lễ thanh tẩy dành cho các bà mẹ sau khi sinh con. Do đó, ở đây Thánh Giuse cũng tham gia vào sự thanh tẩy, nghĩa là thi hành các nghi thức luật định. Một cách cụ thể, trong đoạn văn này hai ông bà lên đền thờ để thi hành những điều mà luật Chúa truyền (2,23.24.27.39), trong đó có việc tiến dâng con trai đầu lòng và chuộc lại (Xh 13,1.11tt). Nên lưu ý, có lẽ chính hai ông bà chủ sự việc tiến dâng (Lc 2,27), chứ không phải là ông Simeon. Ông này xuất hiện sau đó; ông bế hài nhi và chúc tụng Thiên Chúa.


Như đã nhận xét trên đây, trong trình thuật này, Luca nói đến Thánh Giuse và Đức Maria không những qua đại danh từ ở số nhiều (Họ = hai ông bà) nhưng còn xác định là “cha mẹ của hài nhi”: khi thi hành việc tiến dâng (2,27), khi được nghe những lời chúc tụng của ông Simeon (2,33).

F. Tìm lại Đức Giêsu trong đền thờ (2,41-50)

Thánh Luca trình bày Đức Maria và Thánh Giuse không chỉ như những người giáo dục nhân bản cho Đức Giêsu, mà còn như là tấm gương trong việc tuân hành Luật Chúa: hai ông bà đã lên đền thờ dâng tiến con trai đầu lòng theo luật (2,22.39); hằng năm hai ông bà lên đền thờ dự Lễ Vượt qua theo như luật định (2,41). Khi Đức Giêsu lên 12 tuổi, xảy ra sự cố là cậu ở lại trong đền thờ sau ngày lễ mà không báo trước cho cha mẹ.

Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và mẹ Maria đã cho thấy những mối liên lạc đan chéo trong gia đình Nazareth.

– Đức Maria nói với Đức Giêsu: “con ơi!”, theo lối xưng hô thân mật gia đình. Kế đó là lời trách móc cậu bé vì đã gây lo lắng cho “cha của con và mẹ”. Đức Maria nói thay cho ông Giuse, và đặt ông lên trước, theo thứ tự gia trưởng: “Con thấy không, cha của con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”.

– Đức Giêsu trả lời chung cho cả hai người, với đại danh từ đặt ở số nhiều: “Tại sao các ngài tìm con? Các ngài không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”. Đức Giêsu coi đền thờ như là “nhà” của Cha mình. Dĩ nhiên, “Cha” ở đây được hiểu về Thiên Chúa, chứ không phải là ông Giuse, như bà Maria vừa nói!

Thánh sử Luca nhận xét rằng, “họ” (= hai ông bà) không hiểu lời của Đức Giêsu, nhưng rồi cũng thêm rằng, “Người đi xuống cùng với họ, trở về Nazareth và hằng vâng phục họ.

Như vậy, một đàng ta thấy rằng ông Giuse và bà Maria là “cha mẹ” của Đức Giêsu; nhưng Đức Giêsu còn có một “Cha khác”. Tuy nhiên, dù Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” (đã được nói trước ở 1,35), nhưng Người cũng phục tùng những kẻ giữ cương vị của cha mẹ trong gia đình.

Chương Hai kết thúc với thời gian ẩn dật của Đức Giêsu ở Nazareth cho tới khi hoạt động công khai. Tại đây, Đức Giêsu hấp thụ nền giáo dục nhân bản và đạo đức “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (2,39).

III. KẾT LUẬN

Trong Tin Mừng Luca, vai trò của Thánh Giuse không nổi bật như trong Tin Mừng Matthew. Thánh Giuse là một nhân vật thầm lặng bên cạnh Đức Maria; tuy nhiên, sự hiện diện của ông không phải là dư thừa, bởi vì ông cũng góp phần vào việc thực hiện ý định của Thiên Chúa: khi về Bethlehem để kiểm tra dân số, khi thi hành việc cắt bì và đặt tên cho Hài nhi, khi dâng tiến Hài nhi trong đền thờ, khi nuôi nấng dưỡng dục Hài nhi ở Nazareth. Ông đáng được hưởng lời chúc phúc dành cho kẻ “lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27).

Chúng ta nên ghi nhận vài dụng ngữ của Thánh Luca khi bàn về những mối tương quan của Thánh Giuse.

1/. Với Đức Maria

Thánh Luca chỉ nói rằng Đức Maria là một trinh nữ “đính hôn” với ông Giuse, kể cả vào lúc về Bethlehem. Tuy nhiên, trong suốt chương Hai, Luca nhiều lần nói đến sự liên lạc chặt chẽ giữa hai người khi dùng chủ từ ở số nhiều, – “họ” (hai ông bà) -: trong thời kỳ về Bethlehem làm kiểm tra, lúc Đức Giêsu ra đời, khi đem con lên đền thờ để tiến dâng hay để dự lễ Vượt qua.

2/. Với Đức Giêsu

Khi nói đến việc lên đền thờ dự lễ, Thánh Luca viết rằng: “Hằng năm cha mẹ của Người lên đền thờ” (Lc 2,41). Khi tìm lại Đức Giêsu, Đức Maria nói: “Này cha của con và mẹ (= tôi) phải cực lòng tìm con” (Lc 2,48). Như vậy, ở trong gia đình Nazareth, ông Giuse vẫn cư xử với Đức Giêsu như một người cha. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng lưu ý rằng mình còn có một Cha lớn hơn (Lc 2,49). Thánh Giuse biết rằng, Đức Giêsu không sinh ra do sự giao hợp thể lý, và thi hành chức vụ làm cha trong sự tôn trọng mối liên hệ độc nhất của Đức Giêsu với Chúa Cha. Nhưng, những người ngoài gia đình, bởi vì họ không biết đến chuyện cưu mang khác thường, cho nên họ vẫn nghĩ rằng Đức Giêsu là “con của ông Giuse” (Lc 3,23).

Dù sao đi nữa, bên cạnh vấn đề “danh chính ngôn thuận”, Thánh Luca đã nhìn nhận nhiều trách nhiệm của ông Giuse.

– Về phương diện pháp lý: Tránh cho Đức Maria khỏi rơi vào tình trạng đẻ con không chồng; bảo đảm cho Đức Giêsu được mang dòng tộc David.

– Về phương diện nhân bản: Thánh Giuse săn sóc Đức Maria trong thời kỳ thai nghén, và sinh nở. Cùng với Đức Maria, Thánh Giuse có trách nhiệm dưỡng dục Hài nhi Giêsu.

***

MỤC 3: TIN MỪNG THÁNH MARCO VÀ THÁNH GIOAN

Trong Tân Ước, chỉ có hai cuốn Tin Mừng Thánh Matthew và Luca cung cấp nhiều dữ kiện hơn cả về Thánh Giuse. Hai cuốn Tin Mừng còn lại thì sao?

I. TIN MỪNG THÁNH MARCO

Theo ý kiến các học giả, đây là cuốn Tin Mừng ra đời sớm nhất, và mở đầu với sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Tin Mừng Marco không đề cập đến thời thơ ấu của Đức Giêsu, vì thế không nhắc đến Thánh Giuse.

Tuy nhiên, cũng có hai chi tiết đáng để ý:

1/. Thánh sử Marco đã 5 lần gắn liền “Nazareth” với thân thế của Đức Giêsu: Nazareth không những ám chỉ nguyên quán (1,9; 14,67) mà còn trở thành biệt hiệu của Người (1,24; 10,47; 16,6).

2/. Thánh sử Marco là người duy nhất cho biết Đức Giêsu làm nghề “thợ mộc” (Mc 6,3).

Cả hai chi tiết này đều gián tiếp nói lên mối liên hệ với Thánh Giuse: “cha nào con nấy”. Tuy nhiên, dưới một phương diện khác, liền sau khi nói đến “Đức Giêsu là thợ mộc”, thánh sử thêm rằng, “con bà Maria” (6,3). Lối nói này hơi ngược đời, bởi vì tục lệ thường gắn con với người cha chứ không gắn với bà mẹ (thí dụ như: Simon con ông Gioan). Phải chăng, bởi vì thánh sử muốn nêu bật việc sinh hạ khác thường của Đức Giêsu?

II. TIN MỪNG THÁNH GIOAN

Tin Mừng Thánh Gioan chú trọng đến Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” hơn là “con của ông Adam”. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa, hiện hữu từ muôn thuở, đã đến cắm lều ở giữa loài người (Ga 1,1.14).

Trong tác phẩm này, tên ông Giuse được nhắc đến hai lần:

1/. Vào lúc Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ và thâu nhận môn đệ, ông Philipphe mô tả thân thế của Người như sau: “Chúng tôi đã gặp ông Giêsu Nazareth, con ông Giuse” (1,45). Đây không phải là một chức tước danh giá gì, bởi vì ông Nathanael vặn lại: “Từ Nazareth, làm sao có cái gì hay được”. Ông Philipphe ôn tồn mời anh bạn: “Đến mà xem!”. Qua cuộc đối đáp này, ta có thể ghi nhận rằng, người đương thời khinh rẻ làng Nazareth. Đàng sau não trạng dân gian này, có lẽ còn có một quan điểm thần học nữa, đó là dân Do Thái không thể nào chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, bởi vì vị này được tiên báo như là con vua David, xuất thân từ Bethlehem miền Judea.[20]

2/. Điều này càng rõ hơn nữa khi Đức Giêsu tự xưng là “Bánh từ trời xuống”. Người nghe liền xầm xì: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42).

Hai trường hợp nhắc đến Đức Giêsu như là “con ông Giuse” đều nằm trong bối cảnh người Do Thái đặt vấn nạn về thiên tính của Đức Giêsu. Xem ra Thánh Gioan muốn đối chọi giữa hai cái nhìn về nguồn gốc của Đức Giêsu: người đời chỉ có thể biết được nguồn gốc nhân tính của Người như là con ông Giuse và xuất thân từ Nazareth; cần phải có ơn trên thì mới nhận ra Người từ trời xuống (Ga 6,44; 7,28-29). Sự thay đổi viễn tượng có thể nhận thấy nơi Nathanael. Vào lúc đầu, ông tỏ ra thái độ ngờ vực cách tự nhiên: “Từ Nazareth, có cái gì hay được?” (Ga 1,46); nhưng sau khi đã gặp gỡ Đức Giêsu, ông thốt lên: “Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel” (Ga 1,49).

***

MỤC 4: NHỮNG HÌNH ẢNH TRONG CỰU ƯỚC

Lẽ ra mục “Thánh Giuse trong Cựu Ước” phải được trình bày trước mục “Thánh Giuse trong Tân Ước”, nhưng đó là nói theo thứ tự thời gian chứ không theo ý nghĩa của lịch sử cứu độ. Thật vậy, phải chờ sự giải thích của Đức Giêsu Phục sinh, các môn đệ mới hiểu được những đoạn văn nào trong Cựu Ước nói về Đấng Kitô (xc. Lc 24,27), cách riêng những đoạn nói đến người Đầy tớ đau khổ (xc. Cv 8,34) chứ không riêng gì những đoạn nói về Đấng Messia ngự trên ngai David.[21]

Một đặc trưng của Tin Mừng Thánh Matthew là việc sử dụng thuật ngữ “ngõ hầu ứng nghiệm lời ngôn sứ đã nói” (hoặc: để kiện toàn, hoàn tất, làm trọn,.v.v…). Thuật ngữ này xuất hiện 41 lần trong toàn tác phẩm, và ngay trong hai chương đầu tiên đã gặp thấy 5 lần (1,23; 2,6.15.18.23). Tác giả muốn chứng minh cho các độc giả (người Do Thái) rằng, Đức Giêsu thật là Đấng Messia mà Thiên Chúa hứa sẽ sai đến để cứu dân tộc. Người không chỉ là con cháu vua David mà thôi, nhưng còn giữ vai trò ngang với ông Moses nữa. Điều này được khẳng định trong bài giảng trên núi: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Moses hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Một cách gián tiếp, sự kiện toàn được bày tỏ qua các phản đề tiếp đó: “Anh em đã nghe luật xưa rằng… còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” (Mt 5,21.27.31.33.38.43).

Dựa trên nguyên tắc đó, Giáo Hội tiên khởi cũng lục lọi trong Cựu Ước những đoạn văn có thể áp dụng cho Hội Thánh (chẳng hạn: giao ước, Dân Chúa, đoàn chiên, đền thánh,.v.v…), cho Đức Maria (bà Eva, thiếu nữ Sion,.v.v…). Một cách tương tự như vậy, các Giáo phụ cũng cố gắng đi tìm những đoạn văn Cựu Ước có thể áp dụng cho Thánh Giuse. Tuy có nhiều đường hướng đã được sử dụng (thí dụ những mẫu “người công chính” trong Cựu Ước), nhưng chúng tôi chỉ giới hạn vào một nhân vật cụ thể do chính Thánh Matthew gợi lên, đó là tổ phụ Giuse.[22] Có nhiều điểm tương đồng giữa tổ phụ Giuse trong Cựu Ước và Thánh Giuse.

– Xét về tên gọi, “Giuse” theo nguyên ngữ có nghĩa “Thiên Chúa đã tăng thêm” (St 30,22-24).[23] Thân sinh của cả hai người đều mang tên là “Jacob” (Mt 1,16). Xem ra Matthew cũng muốn nhắc đến tên gọi của thân mẫu nữa khi trưng dẫn bà “Rachel” trong cảnh tàn sát các anh hài (1,18; xc St 30,22-24).

– Một điểm tương đồng khá nổi bật, là cả hai người đã nhận được mặc khải qua “giấc mộng”. Tổ phụ Giuse đã nhận được giấc mộng báo trước sự nghiệp của mình (St 37,5-9 = 42,6-9) và ông cũng giải thích giấc mộng của người khác (St 41,12.16.25). Cả hai đã nắm bắt được ý định của Thiên Chúa qua giấc mộng.

– Lánh nạn qua Ai Cập. Tổ phụ Giuse bị các anh mưu toan ám hại, và nếm cảnh lưu vong bên Ai Cập (St 37,18-20.28). Thánh Giuse đưa thánh gia sang Ai Cập để tránh cuộc tàn sát của vua Herode (Mt 2,13.16).

– Dính líu tới nhà vua. Thánh Giuse đưa thánh gia sang Ai Cập vì vua Herode sợ tiếm vị, và phải chờ đến lúc nhà vua băng hà thì mới trở về quê hương. Tổ phụ Giuse tuy được lòng vua Pharaoh, nhưng ông biết trước rằng khi nhà vua này qua đời thì dân Israel sẽ bị áp bức và buộc phải rời bỏ Ai Cập (Xh 1,8; 13,18-19).

– Con người liêm khiết. Tổ phụ Giuse là người ngay chính, không chiều theo lời dụ dỗ phạm tội (St 39,7-20). Thánh Giuse là người công chính và không muốn xúc phạm đến Đức Maria.

– Trách nhiệm. Tổ phụ Giuse được giao phó nhiều chức vụ quan trọng: quản lý ở nhà quan Potiphar (St 39,4), quản đốc trại giam (St 39,22), quản đốc hoàng gia Pharaoh và quản trị toàn xứ Ai Cập (St 41,41-45). Thánh Giuse chịu trách nhiệm trông coi thánh gia tại Bethlehem, Ai Cập, Nazareth.

Vào thời cận đại, nhiều vị Giáo Hoàng thường đối chiếu Thánh Giuse với tổ phụ Giuse, cách riêng khi nói đến vai trò bảo trợ Giáo Hội.[24] Thế lực bầu cử của Người dựa theo câu nói của vua Pharaoh: “Ite ad Joseph” – “Hãy đến cùng Giuse” (St 41,55), đã được sử dụng từ Thánh Bernado.[25]

KẾT LUẬN

Trong chương này chúng tôi chỉ giới hạn vào việc tìm hiểu ý nghĩa những đoạn văn Tân Ước nói về Thánh Giuse. Trong những chương kế tiếp, chúng ta sẽ thấy tầm áp dụng của những đoạn văn đó để hiểu biết sứ mạng của Người cũng như mẫu gương cho các môn đệ Chúa Kitô. Một cách cụ thể, chúng ta sẽ thấy rằng, Tông huấn Redemptoris Custos của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II sẽ dựa trên những đoạn văn Tân Ước vừa nói, tựa như những “mầu nhiệm kinh Mân Côi”, để chiêm ngắm vai trò của Thánh Giuse trong sứ mạng cứu độ của Chúa Kitô.

– Thánh nhân trở nên “môi giới” để Đức Giêsu trở thành “Con vua David” hoàn tất những lời hứa về Đấng Messia.

– Thánh nhân đã “đặt tên” cho Hài nhi là Giêsu, trình báo cho nhân loại biết Người là Đấng cứu tinh nhân loại, là Emmanuel.

– Thánh nhân đã “đăng ký” Đức Giêsu vào sổ kiểm tra của hoàng đế Roma, để chứng thực Người là thành phần của thế giới nhân loại.

– Thánh nhân đã “dâng tiến” Đức Giêsu cho Chúa Cha, báo trước hy tế cứu chuộc trên thập giá.

– Thánh nhân không những đã bảo vệ Hài nhi Giêsu tại Bethlehem và Ai Cập, nhưng còn tạo điều kiện để Đức Giêsu trở thành “người Nazareth”, một danh hiệu gắn liền với sự nghiệp của Chúa Cứu Thế.

– Dĩ nhiên, Thánh nhân đã góp phần không nhỏ trong việc giáo dục Hài nhi Giêsu về nhân bản, đạo hạnh, cũng như nghề nghiệp.

Đó là cơ sở cho danh hiệu “Redemptoris Custos” (người giữ gìn Đấng Cứu chuộc), “Minister Salutis” (kẻ phục vụ ơn cứu độ) của Tông huấn mà chúng ta sẽ nghiên cứu trong những chương tới.

CHƯƠNG BA
THÁNH GIUSE TRONG NHỮNG SUY TƯ THẦN HỌC


Trong hai chương trước, chúng ta đã thu thập những dữ kiện của Thánh Kinh và Thánh truyền về Thánh Giuse. Trong chương này, chúng ta sẽ xếp đặt những dữ kiện đó theo hệ thống, đồng thời cũng cố gắng tìm hiểu những lý lẽ giải thích đạo lý đức tin (intellectus fidei).

Như đã nói ở Nhập đề, Công Đồng Vatican II đã thay đổi đường hướng trình bày thần học về Đức Maria. Thay vì dừng lại ở những suy diễn về các đặc ân cao trọng mà Thiên Chúa đã ban cho Người, Công Đồng đã muốn nhìn ngắm Người trong tương quan với Đức Giêsu và Hội Thánh. Dựa theo chiều hướng đó, trong Thông điệp Redemptoris Mater, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phân tích “cuộc lữ hành đức tin” của Đức Maria: tuy được ủy thác vai trò độc nhất vô nhị trong chương trình của Thiên Chúa, Mẹ cũng đã trải qua nhiều thử thách gian truân giống như chúng ta. Vì thế Người rất gần gũi với chúng ta; hay cũng có thể nói ngược lại: chúng ta thấy mình gần gũi với Người như một kẻ đồng hành trong đức tin.

Chúng ta có thể nhận xét cách tương tự về đường hướng suy tư thần học của Tông huấn Redemptoris Custos. Thay vì suy diễn các đặc ân cao trọng của Thánh Giuse (vô nhiễm nguyên tội? hồn xác lên trời?), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhìn Thánh Giuse trong vai trò phục vụ chương trình cứu độ, nghĩa là trong tương quan với Đức Giêsu và với Hội Thánh. Theo chiều hướng ấy, chúng tôi sẽ lần lượt bàn về Thánh Giuse trong cuộc đời của Đức Giêsu (mục 1), trong Hội Thánh (mục 2), trong phụng vụ (mục 3).

***

MỤC I. VAI TRÒ THÁNH GIUSE TRONG CUỘC ĐỜI CỦA ĐỨC GIÊSU

Trong những danh hiệu mà truyền thống đã dành cho Thánh Giuse, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chọn hai diễn ngữ xem ra thích hợp nhất để diễn tả vai trò của Người trong chương trình của Thiên Chúa: “Redemptoris custos” (kẻ gìn giữ Chúa Cứu Thế)“Minister salutis” (người phục vụ [thừa tác] ơn cứu độ). Vai trò này được thể hiện qua chức năng là “cha của Đức Giêsu”, và Người trở nên cha của Đức Giêsu qua cuộc hôn nhân với Đức Trinh nữ Maria, thân mẫu Đấng Cứu Thế.

“Cha của Đức Giêsu” – “Chồng của Đức Maria”: đó là hai chủ đề căn bản của những suy tư thần học về Thánh Giuse từ thời các Giáo phụ. Khác một điều là trước đây, người ta dừng lại ở chỗ tranh cãi về bản chất của “phụ tính” (cha theo nghĩa nào?)“hôn nhân” (đâu là yếu tính của hôn nhân?), Tông huấn Redemptoris Custos muốn đào sâu hơn khía cạnh tương quan, nghĩa là trong mối liên hệ với Đức Giêsu và với Đức Maria. Nhờ việc suy niệm các đoạn văn Kinh Thánh, chúng ta có thể khám phá ra khuôn mặt mới của “tình cha”“hôn nhân” trong viễn ảnh của Nước Trời.

I. THÁNH GIUSE VỚI ĐỨC GIÊSU: “CHA”

Theo thứ tự thời gian và luận lý, lẽ ra cần phải bàn đến Thánh Giuse là “chồng của Đức Maria” trước khi nói đến “cha của Đức Giêsu” (Người là cha bởi vì là chồng của mẹ), nhưng xét theo thứ tự thần học, thì mối tương quan với Đức Giêsu cần được đặt lên hàng đầu. Sở dĩ Thánh Giuse được mời gọi hãy lấy Đức Maria làm vợ là bởi vì ông được trao nhiệm vụ phục vụ cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Vai trò làm cha (“Kẻ giữ gìn Đấng Cứu Chuộc”) nằm trong chương trình “phục vụ ơn cứu độ”. Cuộc phục vụ này bao hàm nhiều lãnh vực, đứng đầu là “chứng nhân cho mầu nhiệm Nhập Thể”.

A. Thánh Giuse chứng nhân cho mầu nhiệm Nhập Thể

Nhiều người tỏ ra thất vọng vì Tân Ước không cung cấp nhiều dữ kiện về cuộc đời Thánh Giuse. Nói cho đúng, Tân Ước cũng không cung cấp dữ kiện dồi dào về cuộc đời của Đức Maria, và ngay cả về tiểu sử của Đức Giêsu nữa. Trọng tâm của Tân Ước dồn vào hai điểm chính: thân thế và sự nghiệp của Đức Giêsu Kitô. Nói cách khác, Tân Ước muốn trả lời cho hai câu hỏi: Đức Giêsu là ai? Đức Giêsu đã làm gì cho nhân loại? Hai câu hỏi này tương đương phần nào với mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Vượt Qua của Người.

Đức Giêsu là ai?

Các nhà chú giải Kinh Thánh nhận thấy một sự tiến triển trong cộng đoàn các môn đệ tiên khởi trong tâm thức về thân thế của Đức Giêsu, từ chỗ quan niệm Đức Giêsu như là Đấng Messia được nâng lên làm Con Thiên Chúa do sự phục sinh (xc. Rm 1,4) đến chỗ tin rằng Người là Lời hằng hữu của Thiên Chúa xuống thế làm người (Ga 1,1.14). Dù sao đi nữa, trong hai trình thuật truyền tin của Matthew và Luca, thân thế của Đức Giêsu được mặc khải cho Thánh Giuse và Đức Maria: họ là hai chứng nhân đầu tiên về đức tin của Hội Thánh. Thực vậy trong cuộc truyền tin cho Đức Maria, thiên sứ cho biết rằng Con Trẻ sẽ là: “Con Đấng Tối Cao và Con Thiên Chúa”. Còn trong cuộc truyền tin cho Thánh Giuse, căn cước của người con sinh bởi Đức Maria là “Giêsu và Emmanuel”.

Thánh Giuse không những nhận được mặc khải của thiên sứ về thân thế của Đức Giêsu, nhưng còn được mời gọi hợp tác để chương trình của Thiên Chúa có thể thành tựu. Thực vậy, theo Tin Mừng Matthew, ông Giuse được lệnh đưa bà Maria về làm vợ, ngõ hầu người con sinh ra bởi bà Maria được thừa hưởng dòng dõi vua David, và như vậy là thực hiện những lời Chúa hứa liên quan tới Đấng Messia. Ông Giuse cũng được lệnh đặt tên cho hài nhi sinh ra bởi bà Maria là Giêsu, nhờ thế ông công bố chức phận của Người là “Thiên Chúa Cứu chữa”, và cũng nhờ vậy mà ông giúp cho chương trình của Thiên Chúa Nhập thể được hoàn tất, bởi vì người con sinh ra sẽ là “Emmanuel” (Thiên Chúa ở cùng chúng ta).

Cũng theo Tin Mừng Matthew (ở cuối chương Hai), ông Giuse còn tạo điều kiện để Đức Giêsu trở thành “người Nazareth”. Nazareth không những ám chỉ nguyên quán của Đức Giêsu mà còn nói đến thân phận của Người nữa. Tuy Đức Giêsu là Đấng Messia, là con vua David, nhưng Người không thiết lập vương triều Thiên Chúa theo thể chế cai trị trần gian: Người là Đấng Messia khiêm tốn, chịu đau khổ. Điều này đã gắn với danh hiệu “Nazareth”, một làng quê bị khinh miệt.

Tóm lại, Thánh Giuse làm chứng nhân cho Đức Giêsu vừa là Đấng Messia thuộc hoàng tộc, vừa là Messia tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa, vừa là Emmanuel.

Thánh Giuse thực thi vai trò chứng nhân bằng sự dấn thân của mình: bằng việc lấy Đức Maria làm vợ, bằng việc lên đường về Bethlehem, bằng việc tuân hành luật truyền về sự cắt bì và dâng hiến con đầu lòng, khi lánh nạn qua Ai Cập, bằng việc từ Ai Cập trở về Nazareth; tắt một lời, bằng cách đảm nhận làm “cha của Đức Giêsu”.

B. Thánh Giuse là cha của Đức Giêsu

Khi phân tích các bản văn Tân Ước, chúng ta nhận thấy rằng Matthew không gọi Thánh Giuse là “cha của Đức Giêsu” như là Luca. Tuy nhiên, ta có thể suy đoán dễ dàng từ lời thiên sứ truyền tin cho ông, bởi vì ông là chồng của bà Maria, và bà này sinh ra Đức Giêsu. Hơn nữa, không phải Thánh Giuse chỉ mang danh nghĩa là “cha” mà còn thi hành những bổn phận của người cha theo luật lệ đương thời: đặt tên cho con trẻ (Matthew), đăng ký vào sổ kiểm tra, cắt bì, dâng con đầu lòng (Luca).

1/. Thánh Giuse là cha theo nghĩa nào?

a/. Trong lịch sử thần học, chức vụ làm cha của Thánh Giuse đã được đặt nhiều tên khác nhau:

“Pater putativus” (cha giả định; coi như cha; dường như cha). Tính từ “putativus” bởi động từ “putari” dựa theo đoạn văn của Luca 3,23 (ut putabatur filius Joseph: thiên hạ nghĩ rằng Đức Giêsu là con ông Giuse).

“Pater adoptivus” (cha nuôi, dưỡng phụ). Tuy từ ngữ này đã trở thành phổ thông, nhưng không được chính xác dưới khía cạnh thần học, bởi vì mối tương quan dưỡng hệ mang tính cách “ngẫu nhiên”. Thực vậy, không ai kết hôn với ý định sẽ trở thành cha (hay mẹ) nuôi! Việc nhận con nuôi xảy ra sau khi kết hôn, vì một lý do ngoại tại thúc đẩy (thí dụ son sẻ, hoặc từ thiện). Ngược lại, mối dây phụ hệ giữa Thánh Giuse với Đức Giêsu nằm ở ngay trong mục tiêu của hôn nhân: ông được lệnh trời phải lấy bà Maria để làm cha của hài nhi.

“Pater legalis” (cha theo pháp lý). Thực ra, danh hiệu “dưỡng phụ” cũng bao hàm cha theo nghĩa pháp lý rồi, nhưng khi sử dụng diễn ngữ “cha theo pháp lý” người ta còn muốn trưng ra một đặc tính của luật Do Thái, dự liệu những trường hợp nhìn nhận một người như là cha của đứa trẻ tuy nó được sinh ra không do sự giao hợp của ông với mẹ của nó. Điển hình là luật “levir”: khi một người qua đời mà không có con, thì bà vợ sẽ lấy em chồng, và đứa con sinh ra được coi như là con chính thức của chồng trước (xc. Đnl 25,5-6; xc. St 38,8; R 1; Mt 22,23).

b/. Những từ ngữ trên đây tìm cách xác định tình cha của Thánh Giuse bằng cách quy chiếu về các khuôn mẫu đã có trong xã hội. Phương pháp này đã bị chỉ trích bởi vì không đếm xỉa đến tính cách độc đáo của mối tương quan giữa Thánh Giuse với Đức Giêsu. Tính cách độc đáo (độc nhất vô nhị) nằm ở chỗ dung hòa hai điểm trái ngược: một đàng, Thánh Giuse không phải là cha của Đức Giêsu về thể lý; đàng khác, ông là cha “thật” của Đức Giêsu. Vì thế có người đã tạo ra những diễn ngữ mới, chẳng hạn như:

“Pater messianicus” (cha của vị Thiên sai);

“Pater virgo” (cha đồng trinh), cũng như Đức Maria là “Mẹ đồng trinh”;

“Pater spiritualis” (cha theo thần khí, linh phụ), mối tình cha đã được Thánh Linh biến đổi.

c/. Thực ra, sự khó khăn trong việc diễn tả tình cha của Thánh Giuse không phải chỉ vì Đức Giêsu sinh ra không bởi sự giao hợp vợ chồng (vì thế không phải là “con theo nghĩa thường tình”), nhưng tại vì “cha thật” của Đức Giêsu là Chúa Cha, như Người đã nhắc khéo hai ông bà khi tìm gặp lại trong đền thờ (Lc 2,49). Nói cho cùng, sự khó khăn này không chỉ xảy ra cho người cha (ông Giuse) mà cả cho bà mẹ (Đức Maria nữa). Bà Maria có lẽ đã đau nhói đến tim khi nghe Đức Giêsu tuyên bố: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (xc. Mc 3,34-35); nhưng sau khi định thần, bà có thể an tâm: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”. Chúng ta có thể áp dụng phần nào cho Thánh Giuse: ông đáng gọi là “cha của Đức Giêsu” trong tầm mức thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Thiết tưởng vinh dự của ông Giuse nằm ở chỗ đó: ông đã chấp nhận làm cha của Đức Giêsu do ý muốn của Thiên Chúa, và đồng thời ông giữ một vai trò như là đại diện của Thiên Chúa đối với Đức Giêsu.

2/. Ý nghĩa tình cha của Thánh Giuse

Thánh Giuse thực sự là cha của Đức Giêsu ở dưới thế: ông đã giúp cho công cuộc Nhập thể của Ngôi Lời được trở nên trung thực hơn. [26] Thực vậy, Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật. Đức Giêsu tỏ ra là con người thật khi sinh ra từ một gia đình con người, và lớn lên trong một gia đình con người. Thánh Giuse đã giúp cho Đức Giêsu “nên người”.

Ngoài những hành vi luật pháp đã nói trên đây, chúng ta có thể xét đến mối tình phụ tử giữa Thánh Giuse và Đức Giêsu dựa theo tương quan tình cảm nhìn từ cả đôi bên. [27]

a/. Tình cha của Thánh Giuse

Khi trả lời với Đức Maria trong đền thờ Jerusalem, Đức Giêsu nói rằng Người lo công chuyện của “Cha”, nghĩa là Chúa Cha. Tuy nhiên, điều này không đương nhiên phủ nhận vai trò làm cha của Thánh Giuse. Một cách tương tự như vậy, khi Đức Giêsu dạy các môn đệ rằng, “anh em đừng gọi ai dưới đất là cha vì chỉ có một Cha là Cha trên trời” (Mt 23,8), Người không muốn tiêu hủy tất cả mọi tương quan cha con trong xã hội. Điều mà Đức Giêsu muốn nêu bật là một thứ tự trong liên hệ phụ tử: đứng hàng đầu là Thiên Chúa Cha, nguồn gốc của mọi thứ phụ hệ (xc. Ep 3,14); các tương quan phụ tử trên đời này cần phải quy chiếu về đó. Trong bối cảnh này, vai trò làm cha của Thánh Giuse không xung khắc với Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu; trái lại, có thể khẳng định rằng Thánh Giuse trở thành “hình ảnh” của Chúa Cha dưới đất, qua việc yêu mến, chăm nom, dưỡng dục. Thánh Giuse đã yêu mến Đức Giêsu với những tâm tình của một người cha đối với con mình: tâm tình này chắc hẳn đã được thanh luyện và nâng cao vì được chia sẻ vào chính cội nguồn của tình phụ tử. Trên thực tế, Thánh Giuse đã đem hết tâm tình để phục vụ Đức Giêsu, qua những công tác cụ thể vừa liệt kê trên đây trong thời kỳ sinh hạ, và được tiếp nối với những công tác dưỡng dục nhân bản trong suốt thời ẩn dật.

b/. Tình con của Đức Giêsu

Tuy Thánh Luca nêu bật rằng “Cha” của Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng liền đó, thánh sử viết tiếp rằng Đức Giêsu theo đức Mẹ và ông Giuse trở về Nazareth, và “người đã tùng phục họ” (Lc 2,50-51). Điều này cho phép suy đoán rằng Đức Giêsu đã dành cho hai ngài tất cả những tâm tình thảo hiếu của một người con. Người đã hấp thụ nền giáo dục của song thân, đã “tăng trưởng về khôn ngoan và ân nghĩa” (Lc 2,52), đã hấp thụ cả danh phận nghề nghiệp của cha mình: Người được nhìn nhận như là “con bác thợ mộc” (Mt 13,55), và thậm chí như là “thợ mộc” (Mc 6,3).

Sau khi phân tích mối liên hệ phụ tử dưới khía cạnh tâm lý, Tông huấn Redemptoris Custos còn muốn đi xa hơn nữa, khi gán cho những tâm tình của Thánh Giuse đối với Đức Giêsu một giá trị hy sinh cứu chuộc, qua những lời của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI: “Người đã biến cuộc đời mình thành một sự phục vụ, một sự hy sinh cho mầu nhiệm Nhập Thể và cho sứ vụ cứu độ gắn kèm theo đó; đã sử dụng uy quyền pháp lý đối với thánh gia để trao ban bản thân, cuộc sống và công tác; đã biến đổi ơn gọi tự nhiên trong tình yêu gia đình thành nên một hiến tế siêu nhiên chính bản thân mình, trái tim và tất cả sức lực của mình cho tình yêu phục vụ Đấng Cứu Thế đã sinh ra trong nhà mình”.

3/. Tái khám phá tình cha ở thời đại hôm nay

Việc suy tư về mối liên hệ phụ tử giữa Thánh Giuse và Đức Giêsu không chỉ giới hạn vào phạm vi thần học, nhưng còn làm sáng tỏ vai trò của người cha dưới khía cạnh nhân bản: bản tính của tình cha là gì? Vai trò của người cha như thế nào?

Theo quan niệm cổ truyền, người cha là kẻ truyền lại dòng họ và gia tài cho con cái: đó là “họ nội” (khác với họ ngoại, về đàng mẹ). Mối liên hệ xem ra chặt chẽ: “cha nào con nấy”.

Tuy nhiên, thực tế ra như chứng minh ngược lại: cha thuộc về “họ ngoại” chứ không thuộc “họ nội”. Người con được cưu mang chín tháng ở trong bụng mẹ; bà mẹ biết mình đang mang một đứa con trong lòng, đang khi lắm lần người cha không biết rằng mình đã có đứa con! Sau khi đứa con ra đời, nó vẫn thấy gần gũi với bà mẹ hơn là với người cha: ông thường vắng nhà, mải miết với công ăn việc làm, khoán trắng hết mọi chuyện gia đình cho “nội tướng” là bà mẹ. Người cha sống “ngoài gia đình”.

Dưới sự phân tích của ông Sigmund Freud, chức năng của người cha lại càng bạc bẽo hơn nữa. Người cha tượng trưng cho pháp luật, kiềm chế những ước muốn dục vọng của con cái. Vì thế sự trưởng thành của con cái đòi hỏi phải “giết cha”: con người cần được giải thoát khỏi những ràng buộc thì mới có thể phát triển tự do được. Tiếc rằng thực tế không xảy ra như vậy: thiếu cha, đứa con không cảm thấy thoải mái hơn, nhưng bơ vơ lạc lõng.

Trong bối cảnh xã hội này, nhiều cuộc học hỏi đã được tổ chức để tái khám phá chức năng của người cha. Chức vụ của người cha không chỉ giới hạn vào chuyện sinh con (bởi vì như thế chẳng khác thú vật cho lắm). Người cha có vai trò quan trọng hơn nữa trong việc giáo dục con cái mình: truyền thụ gia sản tinh thần (những kinh nghiệm bản thân, nghề nghiệp, dòng họ); tập cho đứa con tiếp xúc với xã hội; chấp nhận những cam go của thực tại, khác với những ước muốn theo cảm xúc. Nhất là người con cần cảm nhận tình yêu của cha, tuy rằng cách biểu lộ tình yêu này khác với tình yêu của người mẹ. Dù vậy, người con cần cảm nghiệm sự gần gũi của người cha, một người cha quan tâm đến nó, chứ không bù đầu vào chuyện công ăn việc làm.

Như đã nói trên đây, đối với Đức Giêsu, Thánh Giuse đã thực hiện vai trò làm cha như là đại diện cho Chúa Cha. Tâm lý học cho biết rằng nhiều lần chúng ta hình dung Thiên Chúa là cha dựa theo kinh nghiệm mà chúng ta có về thân sinh của mình. Như vậy, tình cha không chỉ là một thực tại tâm lý xã hội, nhưng còn mang chiều kích siêu nhiên nữa.

Nhận xét về tình cha trong liên hệ gia đình cũng có thể áp dụng cho những “cha tinh thần”. Truyền thống nhiều tôn giáo đã nhìn nhận vai trò của các “sư phụ” (thầy như cha). Truyền thống Kitô giáo cũng đã biết đến mối dây phụ tử tinh thần qua nơi các vị mục tử (sinh những người con cho Nước Trời, nhờ lời giảng và các bí tích), các vị hướng dẫn tâm linh (“abbas”, kể từ các ẩn sĩ Ai Cập thế kỷ IV).

II. THÁNH GIUSE VỚI ĐỨC MARIA: “CHỒNG”

Trong tiếng Việt, mối tương quan vợ chồng được diễn tả qua nhiều từ ngữ: chồng được gọi là “hôn phu, phu quân, lang quân”; vợ là “hôn thê, hiền thê”. Hai người là “bạn trăm năm”. Tuy nhiên, ở đây, vì cần phân tích ý nghĩa thần học, chúng tôi xin sử dụng ngôn ngữ trực tiếp là vợ chồng. [28] Có lẽ không ít người sẽ cảm thấy chói tai khi gọi Đức Maria là “vợ” của ông Giuse (hoặc gọi ông Giuse là chồng của Đức Maria), bởi vì hai người đã khấn giữ đồng trinh và không có quan hệ vợ chồng (hai người là “bạn rất thanh sạch”). Tuy nhiên, chính Tân Ước đã ghi nhận rõ ràng rằng, Thánh Giuse và Đức Maria là vợ chồng (xc. Mt 1,15.18-20.24; Lc 1,27; 2,5); thậm chí ông Giuse được lệnh của thiên sứ hãy lấy bà Maria làm vợ. Nói cách khác, hai ông bà trở thành vợ chồng do ý muốn của Chúa. Đối với chúng ta, điều quan trọng là cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của mối dây hôn nhân giữa Thánh Giuse với Đức Maria. Hơn thế nữa, Thánh Augustino và Thánh Thomas Aquinas đã khẳng định sự chân thực của mối hôn nhân ấy, [29] rồi từ đó trình bày ý nghĩa cao quý của hôn nhân.

A. Hôn nhân của Thánh Giuse trong ý định của Thiên Chúa

Như đã nói, dựa theo Tin Mừng Matthew, thiên sứ đã kêu gọi Thánh Giuse hãy lấy Đức Maria làm vợ. Trước đó, hai người đã đính hôn với nhau rồi, và chúng ta không biết vì lý do gì. Nhưng từ khi thiên sứ hiện ra, thì hôn nhân này mang một ý nghĩa chính xác: ông Giuse cần phải lấy bà Maria làm vợ, để con trẻ sinh ra bởi bà Maria được nhận vào dòng dõi của vua David. Ông Giuse cần phải lấy bà Maria làm vợ bởi vì ông được ơn gọi làm cha của Đấng Messia. [30]

Đồng thời, cả Matthew lẫn Luca đều nhấn mạnh rằng Đức Giêsu được sinh ra do quyền năng của Chúa Thánh Thần, chứ không do sự giao hợp giữa hai ông bà. Trong lịch sử Giáo Hội, khá nhiều cuộc tranh luận đã nảy lên chung quanh cụm từ “do quyền năng của Chúa Thánh Thần”. [31]

– Có ý kiến cho rằng đây là một huyền thoại (trinh nữ sinh con: “Partenogenesis”) gặp thấy nơi nhiều tôn giáo cổ truyền ở miền Điạ Trung hải;

– Có ý kiến cho rằng cụm từ muốn nói đến một tác động của Thần Khí Tạo Dựng sự sống;

– Có ý kiến cho rằng cụm từ này chỉ muốn nói rằng Đức Giêsu là một món quà do Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại mà thôi. Việc thụ thai xảy ra do sự giao hợp thường tình giữa ông Giuse và bà Maria.

– Có ý kiến cho rằng cụm từ này không nhắm giải thích bản chất sự thụ thai của Đức Maria cho bằng nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu: Đức Giêsu là con người thật, sinh bởi một bà mẹ thuộc về nhân loại; tuy nhiên, Đức Giêsu còn mang một nguyên uỷ siêu việt: Người là Con Thiên Chúa. Thật vậy, Đức Giêsu không chỉ là một con người giống như bao nhiêu con người khác, nhưng Người còn là Con Thiên Chúa.

Chúng tôi nghiêng theo ý kiến cuối cùng này. Những cuộc tranh luận để giải thích cuộc thụ thai của Đức Giêsu dưới phương diện sinh học (y học) không ích lợi gì hết, bởi vì điều này không nằm trong lãnh vực mặc khải. Tân Ước chỉ nói cho chúng ta biết rằng, “Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và là con của bà Maria”. Dĩ nhiên là trong mỗi trường hợp, tiếng “con” mang một ý nghĩa riêng biệt: “Con Thiên Chúa” không thể hiểu như là con do Thiên Chúa sinh sản ra; một cách tương tự như vậy, “con của bà Maria” không thể hiểu như là con do cuộc giao hợp giữa bà với chồng mình! “Điều đó xảy đến thế nào được?”; Đức Maria đã hỏi sứ thần như vậy (Lc 1,34), và lời giải thích của sứ thần chẳng đi vào hết mọi ngóc ngách của phương diện sinh lý! Cả một mầu nhiệm bao trùm việc Thiên Chúa làm người do bởi Đức Trinh Nữ Maria.

Phải chăng vai trò của Thánh Giuse trở nên thừa thãi trong câu chuyện này? Các Giáo phụ không nghĩ như vậy, và họ cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của sự hiện diện của ông trong mầu nhiệm này. Các lý do ấy đã được Thánh Thomas tóm tắt lại trong sách Tổng Luận Thần Học: [32] như Thánh Ambrosio đã nói, Thánh Giuse trở thành chứng nhân cho sự thụ thai trinh khiết của Đức Maria (ý kiến của các Giáo phụ Ambrosio, Hieronimo, Augustino). Thật vậy, nếu Đức Maria quả quyết rằng mình có con do một phép lạ thì không biết có ai tin nổi hay không; nhưng nếu chính người chồng của mình cũng chứng thực điều đó thì thiên hạ dễ chấp nhận hơn! Dù sao, đối với luật pháp đương thời, Đức Maria cần được Thánh Giuse bảo vệ, kẻo bị ném đá vì tội ngoại tình. Đàng khác, Đức Maria cũng cần được Thánh Giuse giúp đỡ trong suốt thời gian mang thai và nuôi dưỡng Hài nhi Giêsu.

Ngoài những luận cứ còn nằm trên lý luận thường tình, các Giáo phụ còn muốn tiến xa hơn nữa, đào sâu thêm khía cạnh triết học về bản chất hôn nhân, cũng như khía cạnh huyền bí của mối tình phu phụ.

B. Ý nghĩa của hôn nhân giữa Thánh Giuse với Đức Maria

Trong lịch sử thần học, cuộc hôn nhân này đã được phân tích dưới nhiều góc cạnh khác nhau.

1/. Vào thời Trung cổ, các nhà luật học đã tranh luận với nhau về yếu tố cốt yếu của hôn nhân. Theo quan điểm của luật Roma, hôn nhân được cấu thành do sự thỏa thuận của ý chí (Consensus); theo quan điểm của luật Germanic, hôn nhân được cấu thành do sự giao hợp vợ chồng (Copulatio). Vì muốn dung hòa hai quan điểm đó, giáo luật đề ra học thuyết về “giá thú hữu hiệu và hoàn hợp” (ratum et consummatum). Dĩ nhiên, giá thú của Thánh Giuse chỉ là “thành hiệu”, nhưng “bất hoàn hợp”.

2/. Trước đó, Thánh Augustino đã suy tư về bản chất hôn nhân dưới khía cạnh triết học và tâm lý, và đã nhìn thấy khuôn mẫu tuyệt vời nơi hôn nhân của Thánh Giuse. [33] Theo quan điểm dân gian cổ truyền, mục tiêu của hôn nhân là sinh con đẻ cái, nối dõi tông đường. Nhìn dưới viễn tượng của thần học Kitô giáo, theo đó hôn nhân được nâng lên hàng bí tích, nghĩa là được gán thêm giá trị Thánh Thiêng, Thánh Augustino vạch ra ba thiện ích của hôn nhân là: con cái, trung tín và chung thủy. Tất cả ba thiện ích này đều đạt được nơi hôn nhân của Thánh Giuse với Đức Maria. [34]

Hơn thế nữa, lý tưởng cao quý nhất của hôn nhân là sự hòa hợp (unio): hai người trở nên một. Tuy nhiên, không nên hiểu sự hòa hợp này về khía cạnh thể xác mà thôi; cần phải lên cao hơn nữa, đó là sự hòa hợp về tâm tình và về tinh thần (mentis affectus).

3/. Suy tư của Tông huấn Redemptoris Custos

Như đã nói, Tông huấn Redemptoris Custos lặp lại đạo lý cổ truyền; khẳng định rằng, hôn nhân của Thánh Giuse với Đức Maria là giá thú thật sự: đây là một dữ kiện của Tân Ước. Tông huấn cũng trích dẫn những giải thích của Thánh Augustino và Thánh Thomas Aquinas về bản chất hôn nhân. [35] Tuy nhiên, bên cạnh đặc tính hòa hợp về tâm tình và tinh thần, Tông huấn còn muốn nêu bật nhiều yếu tố khác tạo nên sự thông hiệp giữa Thánh Giuse và Đức Maria.

– Cả hai đều là mẫu gương của người tín hữu, đáp lại mặc khải của Thiên Chúa với sự tuân thuận: [36]Đức Maria với lời “Xin vâng”, Thánh Giuse với việc lấy Đức Maria về làm vợ.

– Cả hai đều liên đới với nhau trong việc bảo vệ “mầu nhiệm”, được ký thác cho hai người gìn giữ. Cả hai người đều giữ một vai trò tích cực trong kế hoạch cứu độ: Đức Maria qua chức vụ làm mẹ của Đức Giêsu; Thánh Giuse qua chức vụ làm cha của Đức Giêsu qua hôn nhân với Đức Maria. [37]

– Cả hai đều đã nếm những thử thách của cuộc “lữ hành đức tin”. [38] Mặc dù chấp nhận lời của thiên sứ nói về bản tính của Đức Giêsu, Đức Maria chưa hiểu trọn tất cả sự súc tích của nó: Mẹ đã nghiền ngẫm lời Chúa trong lòng (Lc 2,19); Mẹ đã cảm thấy tâm can như bị lưỡi gươm đâm thâu (Lc 2,35); Mẹ không hiểu câu trả lời của Đức Giêsu trong đền thờ sau ba ngày thất lạc (Lc 2,50). Vào dịp này, Thánh Luca chú thích rằng Thánh Giuse cũng chia sẻ cùng tâm trạng như vậy (“họ không hiểu lời Chúa nói”). Chúng ta cũng có thể suy đoán rằng ông cũng trải qua màn đen của đức tin kể từ khi thấy bà Maria có thai, và kéo dài suốt những chặng đường đi về Bethlehem, lánh nạn về Ai Cập. Những gian nan thử thách xem ra hoàn toàn trái nghịch với bản tính thần linh của Đức Giêsu: chẳng lẽ Đấng Messia, Đấng “Thiên Chúa cứu độ” mà tỏ ra yếu ớt nhu nhược như vậy sao? Thật là có lý để khẳng định rằng Thánh Giuse đã trải qua một tiến trình gay go để hiểu biết bản thân của Đức “Emmanuel”.

– Từ sự chia sẻ và liên đới vừa nói, chúng ta có thể hình dung sự khắng khít giữa hai vị: mối tình vợ chồng được Thần khí đức ái nâng cấp để thông dự vào kế hoạch cứu độ. Mối tình của hai người thể hiện được lý tưởng “bí tích” mà Thánh Phaolô đã diễn tả về tình yêu huyền nhiệm giữa Đức Kitô và Hội Thánh. [39]

Thiết tưởng không phải là thừa khi nhắc đến những cấp độ của tình yêu, từ chỗ chiếm hữu đến chỗ trao ban, mà thần học đã diễn tả qua những từ ngữ: “Eros”, “Philia”, “Agape”, được Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI phân tích trong Thông điệp Deus caritas est. [40]

C. Sự trinh khiết của Thánh Giuse

Trong lịch sử Giáo Hội, đức trinh khiết của Thánh Giuse đã trở thành đề tài cho nhiều cuộc tranh luận, có thể tóm lại vào ba điểm như sau: 1/ phải chăng ông Giuse đã có một đời vợ trước khi lấy bà Maria? 2/ phải chăng ông Giuse ăn ở sau khi bà Maria sinh con? 3/ phải chăng ông Giuse khấn giữ đồng trinh? . [41]

Hai câu hỏi đầu tiên được đặt ra do sự hiện diện của các “anh em của Đức Giêsu” trong các bản văn Phúc Âm (Mc 6,3). Để giải quyết vấn đề này, hai ý kiến được đưa ra:

1/. Ông Giuse đã có một đời vợ và đã có con. Sau đó, ông góa vợ, lấy bà Maria. Như thế, “những anh em của Đức Giêsu” được hiểu như “những người anh cùng cha khác mẹ”. Đây là giải đáp của nhiều ngụy thư Tin Mừng, cách riêng là “Tiền Tin Mừng Thánh Jacobe” và được nhiều Giáo phụ chấp nhận (các Giáo phụ bên Đông Phương: Origène, Epiphanius, Gregorio Nyssa, Cyrillô Alexandria, Theophylact, Theodoretus, Gioan Kim khẩu; bên Tây Phương: Ambrosio, Hilariô). Ảnh hưởng của nó trên dân gian cũng đáng kể, xét vì nhiều họa sĩ vẽ Thánh Giuse như một cụ già. [42]

2/. Ý kiến thứ hai cho rằng, sau khi đã sinh ra Đức Giêsu, bà Maria có quan hệ bình thường với ông Giuse và sinh ra nhiều con nữa: như vậy họ là “em ruột của Đức Giêsu”. Lập luận này dựa theo hai câu văn của Tin Mừng:

“Ông Giuse không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai” (Mt 1,25). Phải chăng sau khi sinh Đức Giêsu, hai người lại có quan hệ vợ chồng?

“Bà Maria sinh con trai đầu lòng” (Lc 2,7). Phải chăng bà còn sinh những con thứ nữa?

Những vấn nạn này đã được giải thích trong chương Một. Ít là kể từ thế kỷ IV (tín biểu của thánh Epiphaniô năm 374; Công Đồng Constantinopolis II năm 553), Hội Thánh Công Giáo tuyên xưng rằng Đức Maria “trọn đời đồng trinh”, trước và sau khi sinh con. . [43]

3/. Đối lại với hai ý kiến vừa rồi, ý kiến thứ ba khẳng định rằng Thánh Giuse cũng hoàn toàn khiết tịnh: ông không có bà vợ nào trước bà Maria,[44] và thậm chí ông đã khấn giữ khiết tịnh cùng với bà Maria.

Tuy điều này không nằm trong đạo lý chính thức của Giáo Hội, nhưng đã được các nhà thần học khẳng định ngay từ thời Trung cổ, cách riêng với Thánh Alberto và Thánh Thomas Aquinas. [45]Các văn kiện của Huấn quyền vào thời cận đại cũng quả quyết như vậy. [46]

Thực ra, nên phân biệt nhiều cấp độ chung quanh sự khiết tịnh trọn hảo của Thánh Giuse:

– Không có đoạn văn nào trong Tân Ước nói đến sự khiết tịnh của Thánh Giuse; và cũng không có đoạn văn nào trong Tân Ước khẳng định ngược lại. Vì thế, sự khiết tịnh trọn hảo của Thánh Giuse là điều suy đoán dựa trên sự Thánh Thiện của ba nhân vật trong thánh gia Nazareth.

– Việc khẳng định đức khiết tịnh trọn hảo của Thánh Giuse không nhất thiết đòi hỏi rằng Người đã “khấn hứa” hoặc riêng với Chúa hay cùng với Đức Maria: [47]không có tài liệu nào khẳng định điều đó (nhưng cũng không có tài liệu nào nói ngược lại). Thiết tưởng nên hiểu sự “khấn hứa” (votum) như là một điều dốc quyết của ý chí hơn là một thứ nghi thức đặc thù. [48]

– Một thắc mắc đương nhiên sẽ nảy lên: nếu đã quyết định giữ mình trinh khiết (nghĩa là dâng hiến trọn trái tim không chia sẻ cho Thiên Chúa), thì tại sao lại còn kết hôn? Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong loạt bài huấn giáo về Đức Maria [49] đã trình bày vấn nạn và tìm cách trả lời như sau:

Vào lúc Truyền tin, Đức Maria ở trong tình trạng đính hôn. Thử hỏi: tại sao Người đã chấp nhận sự đính hôn một khi đã dốc lòng giữ mình trinh khiết suốt đời?

Thánh sử Luca đã nhận thấy sự khó khăn đó, nhưng ông chỉ ghi nhận tình hình mà không đưa ra một lời giải thích nào hết. Sự kiện thánh sử nêu bật quyết tâm sống trinh khiết của Đức Maria nhưng đồng thời cũng trình bày như là vợ của ông Giuse là một dấu chỉ cho thấy cả hai chi tiết này đều đáng tin về khía cạnh lịch sử.

Có thể giả thiết rằng giữa ông Giuse và bà Maria, vào lúc đính hôn, họ đã đồng ý với nhau về cuộc sống trinh khiết. Mặt khác, Chúa Thánh Thần, Đấng đã gợi hứng cho Đức Maria lựa chọn sự trinh khiết để nhằm tới mầu nhiệm Nhập Thể và đã muốn cho mầu nhiệm này diễn ra trong khung cảnh một gia đình thích hợp cho sự tăng trưởng của Hài nhi, thì ắt là Ngài cũng có thể gợi nơi ông Giuse lý tưởng trinh khiết.

Sứ thần của Chúa, khi hiện ra với ông Giuse trong giấc mơ, đã nói như sau: “Này, ông Giuse, con vua David, đừng sợ đón bà Maria về làm vợ, bởi vì đứa con mà bà sinh ra là do Thánh Thần” (Mt 1, 20). Như vậy ông Giuse đã nhận được lời xác nhận ơn gọi sống con đường hôn nhân một cách hết sức đặc biệt.

Qua việc hiệp thông trinh khiết với người nữ đã được chọn để sinh hạ Đức Giêsu, Chúa đã gọi ông Giuse hợp tác vào việc thực hiện chương trình cứu chuộc.

Kiểu hôn nhân mà Chúa Thánh Thần hướng dẫn bà Maria và ông Giuse chỉ có thể hiểu được trong toàn bộ kế hoạch cứu độ và trong khung cảnh một linh đạo cao siêu. Việc thực hiện cụ thể mầu nhiệm Nhập Thể đòi hỏi một sự sinh hạ trinh khiết để nêu bật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và đồng thời đòi hỏi một gia đình để bảo đảm cho nhân cách của Hài nhi được phát triển điều hòa.

Chính vì phải góp phần vào mầu nhiệm của Ngôi Lời nhập thể mà ông Giuse và bà Maria đã lãnh nhận ơn thánh để họ vừa sống đặc sủng trinh khiết vừa sống hồng ân hôn nhân. Sự thông hiệp tình yêu trinh khiết giữa Đức Maria và ông Giuse, tuy tạo nên một trường hợp hết sức đặc biệt, gắn liền với việc thực hiện mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng vẫn là một hôn nhân đích thực” . [50]

Chúng ta phải nhìn nhận rằng đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người: Đức Maria vừa là trinh nữ vừa là mẹ, Thánh Giuse vừa trinh khiết vừa là chồng. Sự nghịch lý này chỉ có thể giải thích được ngay từ cội rễ của nó là mầu nhiệm Nhập Thể: Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người.

Dù sao, trong chế độ Tân Ước, hai nếp sống hôn nhân và trinh khiết không tương phản với nhau, nhưng được kêu gọi để bổ túc cho nhau trong việc diễn tả một mầu nhiệm của sự kết hiệp huyền nhiệm của Đức Kitô với Hội Thánh (xc. Ep 5,32). Dĩ nhiên, để có khả năng diễn tả mầu nhiệm này, chúng ta cần nhận được ân sủng của Thiên Chúa: ân sủng để dâng hiến con tim không chia sẻ cho Thiên Chúa, ân sủng để trao ban hỗ tương trong đời vợ chồng.

Do đó, cũng như Đức Maria là mẫu gương cho các trinh nữ và các bà mẹ, [51] thì Thánh Giuse cũng là mẫu gương và bảo trợ cho những người chồng cũng như những người trinh khiết (nam hoặc nữ). Thiết tưởng trong quá khứ chúng ta thường nhấn mạnh rằng sự “độc thân vì Nước Trời” là một “ơn gọi” (một đặc sủng: xc. 1Cr 7,7; Mt 19,10-12), nhưng ít lưu ý đến hôn nhân cũng là một “ơn gọi”: đôi bạn cần ân sủng của Chúa để đón nhận nhau theo đức ái chứ không chỉ vì đam mê (cũng như Thánh Giuse nhận Đức Maria làm vợ “theo ý Chúa”). Bí tích Hôn Nhân được thiết lập nhằm đạt đến lý tưởng ấy.

III. NHỮNG ĐẶC ÂN VÀ NHÂN ĐỨC

Các tác phẩm thần học về Thánh Giuse thường nói đến các đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Người, dựa theo vài nguyên tắc chung của đường lối quan phòng đã được Thánh Thomas Aquinas phát biểu dựa theo giáo huấn của các Giáo phụ.

1/. Khi Thiên Chúa đã tuyển chọn người nào vào một sứ mạng đặc biệt thì Người cũng ban những ơn huệ cần thiết (kể cả trên bình diện tự nhiên) để chu toàn sứ mạng (“illos quos Deus ad aliquid eligit, ita praeparat et disponit ut ad id ad quod eliguntur inveniantur idonei”) [52]

2/. Ai càng gần gũi với nguồn mạch ân sủng, thì càng nhận được những hiệu quả dồi dào của ân sủng (“quanto aliquid magis appropinquat principio in quolibet genere, tanto magis participat effectum illius principii”). [53]

Từ những nguyên tắc vừa rồi, các nhà thần học lý luận thế này: ở trên đời này, có ai được Thiên Chúa ủy thác trách vụ cao quý như là Đức Maria và Thánh Giuse? Vì thế, sau đức Mẹ, Thánh Giuse chắc chắn đã lãnh nhận những ân huệ tương xứng với ơn gọi của mình. Một cách tương tự như vậy, ngoài Đức Mẹ ra, thử hỏi có ai gần gũi với Đức Giêsu nguồn mạch ân sủng và thánh hóa như Thánh Giuse? Vì thế chắc chắn là Người đã được thánh hóa bởi đủ mọi thứ nhân đức.

Nói chung, các tác giả thường bàn đến những đặc ân và nhân đức sau đây.

A. Những đặc ân

Cũng như Đức Maria được đặc ân vô nhiễm nguyên tội và hồn xác lên trời, hẳn Thánh Giuse cũng được chia sẻ hai đặc ân ấy.

1/. Vô nhiễm nguyên tội

Dựa theo ý kiến của nhiều nhà thần học (Gerson, Isolani, thánh An-phong,v.v…), nếu Thánh Gioan Tiền Hô đã được thánh hóa ngay từ trong lòng mẹ (xc. Lc 1,41-44), thì đâu có lý do gì mà Thánh Giuse lại không được ân huệ đó?

Tuy trước đây nhiều tác giả chấp nhận đạo lý “vô nhiễm nguyên tội” cách dễ dàng, nhưng ngày nay, người ta tỏ ra dè dặt hơn. Lập luận của thần học không thể chỉ trên phương pháp suy diễn, nhưng còn phải được kiểm chứng với nền tảng mặc khải nữa. Việc Thánh Giuse không mắc tội tổ tông không dựa trên cơ sở của Kinh Thánh và Huấn quyền.

2/. Hồn xác lên trời

Dựa theo đoạn văn của Mt 27,52-53 (sau khi Đức Giêsu sống lại, nhiều vị thánh cũng được phục sinh), cha Francisco Suarez và thánh Francois de Sales cho rằng Thánh Giuse cũng được liệt vào số những người đó, nghĩa là đã được sống lại cả linh hồn lẫn thân xác.

Về điểm này, chúng ta cũng có thể đưa ra nhận xét tương tự như đối với đặc ân vô nhiễm nguyên tội.

B. Những nhân đức

Chúng ta thấy trong Tân Ước, Thánh Giuse đã được mệnh danh là “công chính” (công bình chính trực: Mt 1,19). Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Người chỉ có một nhân đức mà thôi. Các nhà thần học tìm cách thiết lập danh sách các nhân đức dựa theo những tiêu chuẩn khác nhau.

Có lẽ cha Isolani là người đầu tiên tán giải các nhân đức của Thánh Giuse dựa theo những chữ cái ghép thành tên riêng (IOSEPH trong tiếng Latin): Iustitia (công bằng), Oboedientia (vâng lời), Sapientia (khôn ngoan), Experientia (kinh nghiệm), Patientia (nhẫn nhục), Humilitas (khiêm nhường). Các nhà giảng thuyết như Bossuet không tiếc lời ca ngợi đời sống đức độ của Người, dựa theo danh sách cổ truyền các nhân đức (Tin, Cậy, Mến, Khôn ngoan, Công bằng, Mạnh bạo, Tiết độ), hoặc tám mối phúc thật, hoặc bảy ơn Chúa Thánh Thần. Một danh mục dài hơn có thể tìm thấy trong kinh cầu Thánh Giuse.

Dĩ nhiên, mỗi thời đại thích nhấn mạnh đến một vài nhân đức đặc biệt. Một cách tương tự như vậy, mỗi hàng ngũ (giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân) hoặc chức nghiệp cũng thích đề cao một điểm nổi bật (lao động, thợ mộc), như sẽ thấy trong mục tới khi bàn về những mẫu gương.

Trong quá khứ, nhiều tác giả còn thêm hai phụ lục sau đây:

1/. So sánh “vị trí cao trọng” của Thánh Giuse với các thánh khác, cách riêng với Thánh Gioan tiền hô (xc. Mt 11,11: “Trong số những phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tiền Hô”), các thánh tông đồ (luôn được xếp vào hàng đầu trong danh sách đặc sủng, thí dụ Ep 4,11).

Người ta tìm cách phân biệt nhiều khía cạnh khác nhau. Ông Gioan Tiền Hô lớn nhất xét theo Cựu Ước; sự so sánh này hết giá trị khi bước sang Tân Ước (“Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”: Mt 11,11). Thánh Giuse lớn xét về gần gũi với nguồn mạch ân sủng; các thánh tông đồ lớn xét về mặt phẩm trật.

2/. Cấp đẳng “lòng sùng kính” dành cho Thánh Giuse. Theo thần học, các việc tôn kính được phân làm ba cấp độ:

a/. “Latria” (adoratio): “thờ phượng”, dành riêng cho Thiên Chúa;

b/. “Dulia” (veneratio): “tôn kính”, dành cho các thánh;

c/. “Hyperdulia”: “biệt kính”, dành cho Đức Maria.

d/. Có người muốn chỉ định cấp thứ bốn cho Thánh Giuse là “protodulia”.

Những văn kiện gần đây của Tòa Thánh tuy tiếp tục đề cao vị trí cao cả vô song của Thánh Giuse trong kế hoạch cứu độ (thí dụ: Tông huấn Redemptoris Custos, số 8; 20), nhưng không đả động đến vấn đề so sánh cao thấp với các vị thánh khác.

***

MỤC II. THÁNH GIUSE TRONG ĐỜI SỐNG CỦA HỘI THÁNH

Trong mục vừa rồi, chúng ta đã tìm hiểu vai trò của Thánh Giuse trong cuộc đời Đức Giêsu: người được kêu gọi làm chồng của Đức Maria, và trở thành cha của đấng Cứu thế. Tuy nhiên, trong giai đoạn Đức Giêsu hoạt động công khai, Tân Ước không nhắc đến sự hiện diện của Thánh Giuse nữa. Phải chăng sứ mạng của Người đã hoàn tất, và nên rút lui vào bóng tối, cũng tựa như vị tiền hô dọn đường cho Đấng Messia (xc. Ga 3,30)? Nếu chỉ nhìn vào lịch sử Giáo Hội trong thiên niên kỷ thứ nhất, thì chúng ta có thể trả lời rằng: “đúng vậy!”: sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ che chở Đức Giêsu trong thời thơ ấu, Thánh Giuse hoàn toàn bị rơi vào quên lãng, như chúng ta đã thấy trong chương trước (Mục II). Tuy nhiên, khi bước sang thiên niên kỷ thứ hai, và đặc biệt vào những thế kỷ gần đây, Thánh Giuse không những được tôn kính trong phụng vụ, nhưng còn được Giáo Hội tôn phong làm “Bổn mạng” (hay Bảo trợ: Ecclesiae Patronus) của mình cách chính thức kể từ Đức Giáo Hoàng Piô IX đáp lại thỉnh nguyện của Công Đồng Vatican I. [54]

Vì lý do gì Hội Thánh thời này nhận ra một tương quan đặc biệt với Thánh Giuse? Trong Thông điệp Quamquam Pluries, [55] Đức Giáo Hoàng Lêô XIII trả lời là dựa trên sứ mạng của Thánh Giuse đối với thánh gia. “Ngôi nhà mà Thánh Giuse cai quản với quyền hành của người cha đã chứa đựng những mầm mống của Hội Thánh sơ sinh. Cũng như Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ của Đức Giêsu thì cũng là Mẹ của tất cả mọi Kitô hữu; Đức Giêsu là trưởng tử của các tín hữu và họ trở nên những người em của Chúa do ơn làm nghĩa tử nhờ sự cứu chuộc. Đó cũng là những lý do mà thánh Tổ phụ coi như mình được ủy thác bảo trợ đoàn dân Kitô hữu họp thành Hội Thánh. Bởi vì là chồng của Đức Maria và là cha của Đức Giêsu Kitô cho nên Thánh Giuse cũng có một thứ quyền phụ hệ đối với Hội Thánh. […] Sứ mạng mà Chúa quan phòng trao cho Thánh Giuse đã có một tiền mẫu ở nơi ông Giuse, con của cụ Jacob, được vua nước Ai Cập gọi là “vị cứu tinh của thế giới”. Cũng như ông Giuse xưa kia đã quản lý tốt đẹp những công việc trong nhà của chủ mình và phục vụ hữu ích cho cả nước, thì Thánh Giuse, được đặt làm vị hộ thủ Đức Kitô, phải được nhìn nhận như là kẻ che chở và bảo vệ Hội Thánh là nhà của Chúa và là nước Chúa ở dưới đất”.

Như vậy, việc nhìn nhận Thánh Giuse làm Bảo trợ Giáo Hội dựa trên những nguyên tắc thần học sau đây:

1/. Hội Thánh là thân thể của Đức Kitô (xc. Thánh Phaolô);

2/. Đức Maria thân mẫu của Đức Giêsu cũng trở thành thân mẫu của Giáo Hội (xc. Ga 19,26-27; Cv 1,14);

3/. Tín điều “các thánh thông công”: Các thánh trên trời tiếp tục cầu nguyện cho các anh chị em của mình ở dưới thế. Vì thế, cũng như Thánh Giuse xưa kia đã gìn giữ Đức Giêsu khi còn ở dưới đất, thì ngày nay trên trời Người cũng tiếp tục chuyển cầu cho Giáo Hội là nhiệm thể của Chúa. Như Đức Maria được gọi là Mẹ của Giáo Hội, thì Thánh Giuse, đấng gìn giữ Chúa Cứu Thế, cũng được gọi là đấng Bảo trợ Giáo Hội.

Như sẽ thấy trong mục tới, việc suy tôn Thánh Giuse làm vị Bảo trợ đi kèm theo một lễ phụng vụ. Dù sao, trước khi được Tòa Thánh chính thức tuyên bố làm Bảo trợ Giáo Hội, tước hiệu này đã được tôn kính tại nhiều địa phương, Dòng tu. Dĩ nhiên, đã không thiếu Giáo phận, quốc gia, Dòng tu, hội đoàn, ban ngành nhìn nhận Người như vị Bảo trợ. Nền tảng của việc suy tôn đó dựa trên hai lý do căn bản: bởi vì Người là mẫu gương, và bởi vì Người có thế lực chuyển cầu. Theo như lời của thánh Têrêsa Avila, Thánh Giuse không chỉ là Đấng bảo trợ và chuyển cầu trong những ân huệ tinh thần mà ngay cả trong những ân huệ vật chất nữa.

I. MẪU GƯƠNG NHÂN ĐỨC

Thánh Giuse được coi như mẫu gương nhân đức cho mỗi tín hữu cũng như cho toàn thể Hội Thánh.

A. Giuse người công chính

Trong những sách suy ngắm về Thánh Giuse trong tháng Ba dương lịch (cũng như trong kinh cầu kính Thánh Nhân), danh mục các nhân đức khá dài. Tông huấn Redemptoris Custos muốn nêu bật vài khía cạnh thích hợp cách riêng trong thời đại chúng ta: đức tin, trung thành với bổn phận, chiêm niệm.

Chương ba của Tông huấn mang tựa đề của một đức tính trích từ Tân Ước, đó là “người công chính” (Mt 1,19), và khai triển cách riêng việc Thánh Giuse nhận Đức Maria làm vợ tuân theo ý Chúa.

1/. Mẫu gương đức tin

Tuy nhiên, một chủ đề khác được tông huấn khai triển ở nhiều đoạn là đức tin. Tin là thái độ của con người lắng nghe và tuân theo lời Chúa. [56] Việc chấp nhận này không chỉ diễn ra một lần qua tiếng “Xin vâng”, nhưng được diễn tả ra hành động, [57]và kéo dài ra suốt đời. Cũng như Đức Maria, Thánh Giuse trải qua nhiều thử thách trong cuộc “lữ hành đức tin”. [58]

Đừng kể những nỗi nhọc nhằn trong việc bảo vệ thánh gia (những cuộc di chuyển đi Bethlehem, sang Ai Cập, về Nazareth), chắc hẳn sự thử thách lớn lao nhất của Đức Mẹ và Thánh Giuse ở chỗ tin rằng người con của mình là “Thiên Chúa cứu chữa”, “Con Thiên Chúa”. Một cuộc “chạm trán” đã xảy ra tại đền thờ Jerusalem, khi Đức Maria trách con mình đã gây lo lắng cho song thân, thì Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu mà “hai ông bà không hiểu nổi” (Lc 2,50).

2/. Mẫu gương trung tín với bổn phận

Đức tin không chỉ giới hạn trong phạm vi lý trí và ý chí, cũng không thể nào chỉ giới hạn vào việc thưa “xin vâng”. Tông huấn Redemptoris Custos số 17 đã đối chiếu hai trình thuật thiên sứ truyền tin cho Đức Maria và Thánh Giuse, và nhận thấy rằng, Đức Maria đã đáp lại bằng lời “Fiat” còn Thánh Giuse đáp lại bằng sự thinh lặng. Thực ra, sự thuận tuân của Thánh Giuse được diễn tả qua việc làm theo ý Chúa, qua việc chu toàn bổn phận của người chồng (đối với Đức Maria) và người cha (đối với Đức Giêsu).

Mặt khác, việc trung thành với bổn phận mang tính cách năng động, nghĩa là nhạy cảm với tiếng gọi của Chúa, và cụ thể là với tiếng gọi tình yêu. Tông huấn đã trình bày cho thấy Thánh Giuse đã thực hiện chức vụ làm cha và làm chồng với một ý thức mới, dưới tác động của Chúa Thánh Thần: tất cả biến thành một cuộc hiến dâng và trao ban. [59] Điều này cũng được ghi nhận một cách tổng quát hơn đối với các việc làm thường ngày: lao động được thánh hóa nhờ tình yêu dâng hiến. [60]

3/. Mẫu gương của đời chiêm niệm

Như vừa nói, Thánh Giuse đã biểu lộ đức tin qua hành động. Tuy nhiên Người không phải là con người náo động. Tiếp theo chương 4 về lao động, chương 5 của Tông huấn Redemptoris Custos dành cho đời sống nội tâm. Thánh Giuse không những là con người thầm lặng nhưng nhất là con người chiêm niệm: Người sống trong sự đối thoại thân tình với Thiên Chúa, tìm hiểu mầu nhiệm của Thiên Chúa qua những dấu chỉ của các biến cố, và đặc biệt qua dấu chỉ nhân tính của Đức Kitô.

Thánh Giuse trở thành mẫu gương cho những ai được kêu gọi sống đời chiêm niệm, theo như thánh Têrêsa Avila đã nhấn mạnh. [61] Nhưng cũng thể nói được là Thánh Giuse trở thành mẫu gương cho tất cả các tín hữu, cách riêng những người hoạt động tông đồ, bởi vì hiệu quả của hoạt động tông đồ tùy thuộc vào mức độ kết hiệp với Thiên Chúa: “không có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,5). [62]

Tông huấn đã trưng dẫn lý tưởng về sự hòa hợp giữa chiêm niệm và hoạt động dựa theo những diễn ngữ của Thánh Augustino và Thánh Gregorio được Thánh Thomas tóm tắt qua hai chiều hướng của lòng yêu mến (đức ái: “charitas”):

a/. Lòng yêu mến chân lý (amor charitatis), hiểu về Đức Kitô, chân lý hằng sống, đưa đến việc tìm kiếm tiếp xúc thân tình với Chúa;

b/. Những đòi hỏi của lòng yêu mến (necessitas charitatis), nghĩa là việc phục vụ tha nhân do đức ái thúc đẩy: vừa có thể hiểu như là đức ái muốn mang Chúa Kitô đến cho tha nhân, vừa như là đức ái phục vụ Chúa Kitô nơi tha nhân. Tất cả hai chiều hướng đều xoay quanh đức ái và Chúa Kitô.

B. Mẫu gương cho toàn thể Hội Thánh

Thánh Giuse được suy tôn làm vị bảo trợ Giáo Hội. Giáo Hội tin tưởng rằng Người sẽ tiếp tục bảo vệ và chuyển cầu cho Giáo Hội cũng như xưa kia Người đã bảo vệ thánh gia.

Đồng thời, Giáo Hội cũng nhìn lên Thánh Giuse như một tấm gương trong công cuộc phục vụ ơn cứu độ. [63] Nói khác đi, Giáo Hội cũng nhận lãnh một sứ mạng tương tự như Thánh Giuse, đó là bảo vệ những mầu nhiệm thánh. Sứ mạng này không chỉ giới hạn vào việc bảo vệ chân lý đức tin khỏi những lầm lạc, nhưng còn kèm theo nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho thế giới: hoặc truyền bá Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô cho những người ở ngoài Giáo Hội, hoặc linh hoạt đức tin nơi những người đã tin Chúa nhưng thờ ơ với tôn giáo. [64]

C. Mẫu gương cho các thành phần trong Giáo Hội

Ra như được soi sáng bởi một thứ trực giác đức tin, từ lâu nhiều thành phần xã hội hoặc hàng ngũ Dân Chúa đã tìm thấy nơi Thánh Giuse một tấm gương và một người bầu cử, chẳng hạn như:

– Những người đính hôn và những người chồng: họ muốn học hỏi tấm gương tôn trọng người bạn của mình, tìm cách bảo vệ thay vì lợi dụng nàng.

– Những người cha: Thánh Giuse là tấm gương của một người cha quan tâm đến việc dưỡng nuôi và giáo dục con cái, hợp tác với Cha trên trời.

– Những gia đình: Thánh Giuse cùng với Mẹ Maria là mẫu gương của sự hòa hợp về tình yêu và đức tin, đặt ích chung lên trên sở thích cá nhân.

– Những người thợ: Thánh Giuse là thợ mộc, đã cần cù làm việc để kiếm kế sinh nhai, và đã dạy nghề cho con mình.

– Những người nghèo, những người tha hương, những người bị xã hội gạt ra bên lề: Thánh Giuse cũng đã nếm cảnh đó tại Bethlehem, Ai Cập, Nazareth.

– Những vị mục tử: Thánh Giuse là mẫu gương của “cha tinh thần”, tận tụy phục vụ Giáo Hội.

– Những người chiêm niệm: Thánh Giuse là mẫu gương của sự thinh lặng, dồn hết tâm trí vào việc sống thân mật với Đức Giêsu.

– Những người lâm chung: Thánh Giuse đã lìa đời với Đức Giêsu và Đức Mẹ đứng bên cạnh. Vì vậy các tín hữu cũng cầu khẩn Người ơn được nhắm mắt an bình trong tình nghĩa với Chúa.

Tông huấn Redemptoris Custos đã nhắc riêng đến một vài hàng ngũ:

1/. Các gia đình: [65] tổ hợp của sự sống, cầu nguyện, lao động. Gia đình là Giáo Hội gia thất. [66]Tông huấn Redemptoris Custos quy chiếu về nhiều văn kiện của Tòa Thánh được trưng dẫn ở nota 17, đặc biệt là Tông huấn Familiaris consortio (22/11/1981).

2/. Giới công nhân, lao động, người nghèo. [67]

3/. Các người chiêm niệm. [68]

II. QUAN THẦY BẢO TRỢ

Như đã nói trên, trước khi được Tòa Thánh chính thức công bố làm Đấng bảo trợ toàn thể Giáo Hội, Thánh Giuse đã được tôn kính tại nhiều nơi dưới tước hiệu ấy. Ngoài ra, Người cũng còn được đặt làm quan thầy cho nhiều thành phần xã hội, các giáo đoàn địa phương. Chúng ta có thể kể ra vắn tắt:

A. Các quốc gia

– Áo: Đức Giáo Hoàng Clemente X – 1675

– Bohemia (miền của cộng hòa Séc): Hoàng đế Ferdinand III – 1655

– Canada: Đức Giáo Hoàng Urbanô VIII – 1637

– Trung Hoa và Việt Nam: Đức Giáo Hoàng Innocentê XI, Tông hiến Sacrosancti Apostolatus 17/8/1678.

– Mexico: Đức Giáo Hoàng Innocentê XI – 1679

– Nga: Đức Giáo Hoàng Piô XI – 1930

– Peru: Đức Giáo Hoàng Piô XII – 1957

B. Các Giáo phận

Vài trường hợp điển hình:

– Mexico: Các Giáo phận Tapachula (1957), Autlán và Chihuahua, Ciudad Guzman (1972), Culiacán (1991), Coatzacoalcos (1994). Các thành phố: Puebla de los Angeles (1611), Oxaca (1727), Mexico (1732), San Miguel el Grande (1764), Morelia (1949).

– Philippin: Các Giáo phận San José de Antique, Daet, San José (1984).

– Pháp: Giáo phận Paris (1891). Các thành phố Avignon (1630), Verdun, Laneuville-à-Bayard (1866).

– Canada: Các Giáo phận Ottawa (1848), Gravelbourg, Labrador-Schefferville, Mackenzie-Fort Smith, Winnipeg (1915).

– Hoa Kỳ: Các Giáo phận Hartford (1962), Saint-Joseph-Kansas City, Anchorage, San José in California (1981).

– Việt Nam: Công Đồng Đàng Ngoài họp tại Phố Hiến (14/2/1670) dưới sự chủ tọa của Đức Cha Lambert de la Motte xin nhận Thánh Giuse làm quan thầy địa phận Đàng Ngoài, và Đức Thánh Cha Clemente X đã chấp thuận (Tông hiến Apostolatus Officium 23/12/1673). Các Giáo phận: Quy Nhơn, Đà Lạt, Xuân Lộc cũng nhận Thánh Giuse làm bảo trợ.

C. Các Dòng tu

Có những Dòng mang tên Thánh Giuse và nhiều Dòng chọn Thánh Giuse làm bổn mạng:

1/. Dòng Thánh Giuse

Theo tự điển các Dòng tu (Dizionario degli Istituti di Perfezione), Hội Dòng đầu tiên mang tên Thánh Giuse được thành lập tại Genova (Italia) năm 1517. Từ đó đến nay, đã có 244 Dòng nam nữ mang tên Thánh Giuse, đặc biệt 45 Dòng nữ phát xuất từ Hội Dòng Thánh Giuse (Soeurs de Saint Joseph) do cha Jacques Crétenet, SJ. lập tại Le Puy (Pháp) năm 1650.

Tại Việt Nam có Dòng Thánh Giuse được cha Jean Sion, MEP. thành lập tại Nhà Đá, Phù Mỹ, Bình Định ngày 1/11/1926.

2/. Nhiều Dòng nhận làm bổn mạng

Nhiều Dòng tu khác tuy không mang tên Thánh Giuse, nhưng đã nhận Người làm bổn mạng. Ví dụ: Dòng Carmelo cải tổ năm 1621, Dòng Augustino năm 1700, Dòng Phansinh viện tu năm 1741, Dòng Chúa Cứu Thế và Dòng Hiến sĩ Đức Mẹ vô nhiễm.

Tại Việt Nam, Thánh Giuse được Đức Cha Lambert de la Motte đặt làm bổn mạng cho các Hội Dòng Mến Thánh Giá (1670).

D. Những thánh đường và Hiệp hội

1/. Theo các sử gia, ngôi thánh đường đầu tiên được dâng kính Thánh Giuse là nguyện đường do các cha Dòng Benedicto cất ở Bologna năm 1129. Thật khó đếm nổi hiện nay trên thế giới có bao nhiêu thánh đường được cung hiến cho Người. Đền thờ nổi tiếng nhất hiện nay có lẽ là Thánh Điện tại Montréal (Canada), được xây cất do sáng kiến của Frère André (Alfred Besset, 1845-1937, được phong chân phước năm 1982), khởi công từ năm 1904 như một ngôi nhà nguyện nhỏ bé, nhưng hoàn tất năm 1969 với nóc lớn thứ nhì thế giới (chỉ thua đền thờ thánh Phêrô ở Roma).

Một ngôi đền thờ vĩ đại được cất tại Barcelona kính Thánh Gia (Sagrada Familia), được khởi công từ năm 1882, với mục đích truyền bá lòng tôn kính Thánh Giuse. Nhiều kiến trúc sư thời danh đã cộng tác vào việc xây cất (đến nay vẫn chưa hoàn thành), như ông Antoni Gaudí.

Tại Việt Nam, nhà thờ Chính tòa Hà Nội mang tước hiệu Thánh Giuse, cũng như hai Đại Chủng Viện Sài Gòn và Hà Nội.

2/. Thánh Giuse được nhận làm bổn mạng của nhiều Hiệp hội và Đoàn thể Công Giáo, cách riêng Hiệp hội các thợ mộc (Venerabile Arciconfraternita di san Giuseppe dei Falegnami, Roma 1450), Hiệp hội cầu nguyện cho những người lâm tử (Pia Unione del Transito di san Giuseppe per la salvezza dei morenti, Roma 1913).

***

MỤC III. NHỮNG KINH NGUYỆN VÀ VIỆC TÔN KÍNH

Giáo Hội nhìn nhận tầm quan trọng của Thánh Giuse không chỉ qua những tuyên ngôn, những văn kiện, nhưng nhất là qua những việc tôn kính đạo đức. Trong chương Hai, chúng tôi đã nói qua sự phát triển của lòng sùng kính Thánh Giuse trải qua các thế kỷ. Trong mục này, chúng ta hãy tìm hiểu lịch sử và ý nghĩa của vài hình thức cụ thể, được xếp vào hai loại chính: [69]

1/. Những hình thức phụng vụ, theo lịch phổ quát và địa phương: lễ kính Thánh Giuse ngày 19/3 (bài lễ; kinh Tiền Tụng và phụng vụ giờ kinh); lễ ngoại lịch kính Thánh Giuse; lễ Thánh Gia; lễ Thánh Giuse lao động; lễ kính cuộc kết hôn; lễ kính Thánh Giuse bảo trợ Hội Thánh; tưởng nhớ việc trốn sang Ai Cập.

2/. Những việc đạo đức dân gian:

a/. Các kinh nguyện: kinh cầu Thánh Giuse; bảy sự vui buồn;

b/. Các thời điểm: thứ tư hàng tuần, tháng 3 dương lịch.

I. PHỤNG VỤ

Trước hết, chúng ta sẽ tìm hiểu những lễ được ghi trong lịch phụng vụ phổ quát, sau đó là những lễ của vài địa phương, hoặc đã thuộc về quá khứ.

A. Ngày lễ chính: 19 tháng Ba

Như đã nói trong chương Hai, bên Đông Phương, nghi điển Byzantin kính nhớ Thánh Giuse chung với các thánh tổ phụ vào mùa Giáng Sinh; riêng nghi điển Copto (bên Ai Cập) mừng vào ngày 26 tháng Abib. Bên Tây Phương, ngày lễ chính được cử hành vào ngày 19 tháng Ba, với một tiến trình lịch sử kéo dài qua nhiều thế kỷ.

Lần đầu tiên, tên Thánh Giuse được nhắc đến vào ngày 19/3 là một cuốn “Tử Đạo Thư”(“Martyrologium”: nêu danh tánh của các thánh nhân dịp kỷ niệm ngày qua đời của các ngài) tại thế kỷ VIII của một đan viện Benedicto ở Rheinau (thuộc Tổng Giáo phận Zurigô, Thụy sĩ). Vào thế kỷ IX, một đan viện khác cũng thuộc Dòng Benedicto ở Reichenau (miền nam nước Đức) tưởng nhớ Người vào ngày 19/3, và cũng có thể là nơi xuất phát phong trào phổ biến lòng tôn kính Thánh Nhân. “Tử Đạo Thư” ở thế kỷ X của Fulda đã đặt tiêu đề ngày 19/3 là: “Tại Bethlehem, Thánh Giuse, Đấng dưỡng nuôi Chúa” (In Bethleem, sancti Joseph, nutritoris Domini).

Người ta không rõ nguồn gốc mối liên hệ giữa ngày 19/3 với Thánh Giuse. Một giả thuyết cho rằng, trước kia đã có lễ Thánh Giuse Antiokia vào ngày 20/3 trong nhiều “Tử Đạo Thư”. Có thể do sự trùng tên, cho nên lịch đã ghi Thánh Giuse hôn phu của Đức Maria vào cùng ngày hoặc vào ngày hôm trước. Một giả thuyết nữa cho rằng, thời xưa tại Roma, ngày 19/3 là lễ của các người thợ tôn kính nữ thần Minerva; vì thế, nó được thay thế bằng lễ kính Thánh Giuse là một người thợ xem ra dễ hiểu. Tiếc rằng, chưa có đủ bằng chứng lịch sử về lễ kính Thánh Giuse thợ vào các thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo. Dù nguồn gốc như thế nào đi nữa, việc mừng lễ Thánh Giuse vào ngày 19/3 đã được thành hình từ đầu thiên niên kỷ thứ hai.

Vào khoảng năm 1030, một đan viện Dòng Benedicto tại Winchester đã cử hành lễ Thánh Giuse. Cũng trong thế kỷ này, Dòng Carmel từ thánh địa trở về châu Âu đã góp phần vào việc quảng bá lòng sùng kính.

Vào năm 1129, các đan sĩ Benedicto thuộc đan viện thánh Helena đã cất một nhà thờ dâng kính Thánh Giuse ở Borgo Galliera (thành phố Bologna, Italia). Có thể nói được, đây là trung tâm phổ biến lòng sùng kính Thánh Nhân sang các nơi khác. Cũng tại nơi đây, tên Thánh Giuse, vốn đã trở thành quen thuộc bên Đông Phương, bắt đầu được đặt cho các trẻ em khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Có lẽ, lòng đạo đức sơ khởi kính Thánh Giuse trong Dòng Phanxicô bắt nguồn do ảnh hưởng của cuộc tiếp xúc với Bologna.

Sang thế kỷ XIII, chúng ta tìm thấy những bản văn được soạn để mừng lễ. Tại Liège có một Lời Nguyện riêng cho Thánh Giuse. Đan viện Benedicto thánh Lorenso tại thành phố đó đã có toàn bộ kinh nguyện, với cung hát, để tôn kính Người. Đan viện thánh Floriano ở nước Áo có một quyển sách lễ với một bài lễ kính Thánh Giuse, và một bài lễ khác kêu cầu những công nghiệp của Người “chống lại sự phỉ báng của phường tội lỗi”.

Trong thế kỷ XIII, các tu sĩ Dòng Phanxicô đã tự động mừng lễ Thánh Giuse, và một “tử đạo thư” đã xếp ngày 19/3 như là ngày lễ “duplex maior” trong khi một quyển trước đó chỉ mừng với cấp “duplex minor”. [70] Tại Pháp, nhà thờ Phanxicô ở Toulouse có một nhà nguyện tôn kính Thánh Giuse từ năm 1222, và vào ngày 07/07/1275 một nhà thờ kế cận tu viện Phanxicô ở Bourbonnais miền Champagne đã được cung hiến long trọng với thánh hiệu này.

Những cuộc thập tự chinh cũng là cơ hội để mang những di tích thánh từ thánh địa về châu Âu, ví dụ như cây gậy của Thánh Giuse, và chiếc nhẫn đính hôn Người trao tặng Đức Maria. Vào năm 1254, một nhà nguyện được xây cất trong nhà thờ thánh Lorenso ở Joinville-sur-Marne (Pháp) để tôn kính đai thắt lưng, và nơi đây đã trở thành trung tâm hành hương. [71] Có lẽ tại những nhà nguyện được cất lên để tôn kính Thánh Giuse, lễ mừng kính Người được cử hành vào tháng Ba.

Vào ngày 1/5/1324, Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ trở thành Dòng tiên khởi tuyên bố tại Tổng Hội rằng, các thành viên của Dòng phải cử hành trong tất cả nhà thờ của họ lễ Thánh Giuse được ấn định mừng vào ngày 15/3. Các tu sĩ Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ đã làm chủ nhà thờ Thánh Giuse ở Bologna kể từ năm 1301, và họ đã phổ biến việc cử hành lễ này. Tổng Hội Dòng Phansinh, vào năm 1399, cũng đã thiết lập lễ Thánh Giuse với chín bài đọc trong Giờ Kinh Phụng Vụ và một Thánh lễ sử dụng phần chung của các thánh “hiển tu” [72](Commune confessorum); đồng thời quyết định rằng, lễ này phải được cử hành vĩnh viễn trong toàn Dòng. Tuy nhiên, không rõ các quyết nghị này có ảnh hưởng đến đâu.

Tại Agrigento (nam Italia), nơi có các tu viện của Dòng Phanxicô, Đaminh, Carmel, vào thế kỷ XIV đã lưu hành “Kinh nguyện kính Thánh Cả Giuse, cha nuôi của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Officium Santissimi Joseph nutricii et patris adoptivi Domini nostri Jesu Christi). Trong phần điệp ca của kinh Magnificat, Người được gọi là “dòng dõi ưu tuyển của Bethlehem, được giải thoát khỏi mọi vết nhơ tội lỗi” (O proles almifica de Bethleem electa, gemma nimis ardua, ab omni labe erepta).

Những chi tiết vừa rồi nhằm trình bày nguồn gốc của việc mừng kính lễ Thánh Giuse trong tháng Ba cùng với việc phát triển ở Tây Phương. Sang thế kỷ XV, ngày lễ mới bắt đầu được phổ biến hơn. Tại Công Đồng Constance (1414-1418), các Nghị phụ đã nghe cha Jean Gerson thuyết minh về lời bầu cử đầy quyền năng của Thánh Giuse, Đấng đã sai khiến hài nhi Giêsu và Đấng có thể được kêu cầu cách hiệu nghiệm để chấm dứt nạn ly giáo đang gây đau khổ cho Hội Thánh. Cha Gerson đã xin Công Đồng xem xét và tuyên Thánh Giuse với một danh dự lớn lao hơn. Tuy nhiên, xem ra ảnh hưởng của Dòng Phanxicô trong thế kỷ này mới thực là nhân tố chính cho việc bành trướng ngày lễ.

Các tu sĩ Dòng Phanxicô, như thánh Bernardino Siena (+ 1414), không chỉ giảng về Thánh Giuse mà còn phân phát lược đồ các bài giảng nữa. Tu sĩ Bernardino Feltre đã thiết lập ở khắp nước Italia những quỹ tín dụng (cho vay không lãi) mang tên “những ngọn núi đạo đức” (Monte di pietà) đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse. Năm 1461, ở Salamanca, Tổng Hội Dòng Phanxicô (nhánh nhiệm nhặt) đã ấn định ngày lễ vào 19/3. Năm 1471, một người bạn của cha Bernardino Feltre và là nguyên Bề trên Tổng Quyền của Dòng Phansinh đắc cử Giáo Hoàng, với niên hiệu Sixto IV. Vào tháng Mười Một năm 1480, ngài cho phép Dòng Phanxicô được cử hành mừng lễ bậc “duplex maior” ngang hàng với các lễ Hiển Linh, Truyền Tin, và Phục Sinh. Mặc dầu là đặc ân được ban cấp cho một Dòng tu, nhưng sự phê chuẩn công khai của Đức Thánh Cha đã mở đường cho việc bành trướng lễ rộng rãi hơn. Nhiều ấn bản của Sách Lễ Roma và Sách Nguyện, chẳng hạn như những quyển do tu sĩ Philipphe Rotingo ở Venise xuất bản năm 1481, đã sắp xếp ngày lễ với bậc “duplex maior” với bài đọc riêng. Người ta cho rằng, Đức Giáo Hoàng Sixto IV đã mở rộng lễ này ra khắp Hội Thánh với cấp “simplex”, mặc dầu chưa có tính cách bó buộc. Một ấn bản Sách Lễ Roma tại Venise do Giovanni Sessa in vào năm 1497, đăng lịch của Dòng Phanxicô với ngày lễ này và những bản văn riêng mà Sách Lễ của Đức Giáo Hoàng Piô V sẽ sử dụng.

Qua thế kỷ XVI, người ta thấy sự bành trướng của việc cử hành lễ 19/3 trong các Giáo phận và các Dòng tu, với việc ghi tên trong các lịch phụng vụ cùng với việc xuất bản những bản văn dùng trong các Sách Lễ và Sách Nguyện. Việc cải tổ Phụng vụ sau Công Đồng Trento đã thiết lập sự thống nhất các sách phụng vụ trong toàn thể nghi lễ Latin. Khi Đức Giáo Hoàng Piô V cho xuất bản Sách Nguyện (năm 1568) và Sách Lễ Roma (năm 1570), ngày 19/3 được dành kính “Thánh Giuse hiển tu” ở bậc “duplex”. Nói chung, những Lời Nguyện được trích từ bài lễ của các vị thánh khác (Thánh Matthew và thánh Tôma). Tuy nhiên, trong thế kỷ này, nhiều Thánh Thi và Lời Nguyện được sáng tác và sử dụng trong các lịch riêng, kể cả sau cuộc canh tân của Đức Giáo Hoàng Piô V.

Theo lời yêu cầu của nhiều quốc gia và Đoàn thể, Đức Giáo Hoàng Gregorio XV tuyên bố lễ Thánh Giuse là ngày lễ buộc trong toàn thể Giáo Hội (ngày 8/5/1621). Ngày 6/12/1670, Đức Giáo Hoàng Clemente X nâng lên bậc “duplex secundae classis”, và soạn ba bài Thánh Thi cho Giờ Kinh Phụng Vụ (kinh Chiều: “Te Ioseph celebrent”; kinh Sách: “Caelitum, Ioseph, decus”; kinh Sáng: “Iste, quem laeti”).

Ngày 4/2/1714, Đức Giáo Hoàng Clemente XI phê chuẩn những bản văn riêng cho ngày lễ 19/3, bao gồm những Thánh Thi đã được Đức Giáo Hoàng Clemente X chứng nhận. Ngày 8/12/1870, Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố Thánh Giuse là bảo trợ của Hội Thánh và nâng lễ Thánh Giuse lên bậc “duplex primae classsis”.

Trong Thông điệp Quamquam Pluries năm 1889, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII ước muốn rằng, tại những nơi nào mà ngày 19/3 không phải là lễ buộc, thì cũng nên được tuân giữ với lòng đạo đức và lòng nhiệt thành như ngày lễ buộc.

Năm 1911, Đức Giáo Hoàng Piô X dời ngày lễ vào Chúa Nhật sau ngày 18/3 như để giảm bớt số lượng ngày lễ buộc trong tuần. Tuy nhiên, chỉ sau ba tuần lễ, do những cuộc tranh luận về phụng vụ mùa Chay, lễ Thánh Giuse được mừng trở lại vào ngày 19/3 ở bậc “duplex primae classsis”, nhưng không phải là lễ buộc, với tiêu đề mới: “Lễ trọng kính Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria, hiển tu” (Commemoratio Sollemnis S.Ioseph, Sponsi B.M.V. Confessoris). Với việc cải tổ phụng vụ năm 1913, ngày lễ được giảm xuống bậc “duplex secundae classis”.

Khi Đức Giáo Hoàng Benedicto XV ban hành Bộ Giáo Luật năm 1917, điều khoản 1247 một lần nữa ấn định lễ Thánh Giuse là ngày lễ buộc trong toàn thể Hội Thánh. Hậu quả là vài tháng sau, lễ nghi phụng vụ được nâng lên bậc “duplex primae classsis”. Trong Bộ Giáo Luật năm 1983, lễ Thánh Giuse là một trong mười ngày lễ buộc của Hội Thánh hoàn vũ, tuy hội đồng Giám mục địa phương có thể xin loại bỏ các ngày đó.

Năm 1956, một quyết định quan trọng theo sau việc thiết lập “lễ Thánh Giuse lao động” là hủy bỏ “lễ Thánh Giuse bảo trợ” được cử hành vào ngày thứ Tư trong tuần thứ Ba sau lễ Phục Sinh. Sắc lệnh này đã nối kết tiêu đề của lễ trọng này: “Bảo trợ Hội Thánh hoàn vũ” vào ngày lễ chính của Thánh Giuse 19/3.

Năm 1969, trong lịch phụng vụ canh tân do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ban hành, ngày 19/3 được xếp vào hàng lễ trọng và mang tiêu đề: “Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria” (S.Ioseph, Sponsi B.M.V.). Với sự thay đổi này, không chỉ ngày lễ, mà cả tiêu đề “bảo trợ Hội Thánh hoàn vũ” cũng bị loại bỏ.

1/. Thánh lễ ngày 19/3

Sách Bài đọc ban hành năm 1969 ấn định ba bài đọc như sau: 2Sm 7,4.12-14a.16 (Đức Messia dòng dõi vua David); Rm 4,13.16-18.22 (gương mẫu đức tin); Mt 1,16,18-21.24 hay Lc 2,41-51a.

Sách Lễ Roma ban hành năm 1970 có những Lời Nguyện mới về Thánh Giuse trong thánh lễ, đề cao vai trò của Người trong nhiệm cục cứu độ và về niềm vui của Hội Thánh có Thánh Giuse như là mẫu gương và Đấng bầu cử. Những bản văn hiện tại chú trọng đến Thánh Giuse trong tương quan với Đức Kitô và với Hội Thánh:

– Đối với Đức Kitô, Thánh Giuse “đã hết lòng phục vụ Đức Kitô, Con Một Chúa”. “Chúa đã giao phó Con Một Chúa chăm sóc giữ gìn như người cha lo cho con cái”.

– Đối với Hội Thánh, Thánh Giuse là vị bảo trợ “được thánh nhân phù trợ ở dưới thế gian này thì cũng được cầu thay nguyện giúp trước toà Chúa”; đồng thời, Người cũng là mẫu gương cho Hội Thánh trong việc “cộng tác với Đức Giêsu để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu”, biết “phục vụ hy sinh suốt đời như người tôi trung”.

Kinh Tiền Tụng duy trì bản văn được Đức Giáo Hoàng Benedicto XV châu phê ngày 9/4/1919, tóm tắt những điều chính yếu của Tin Mừng về vai trò thánh Giuse “người công chính, kết bạn với Đức trinh nữ Mẹ Chúa Trời… tôi tớ trung tín và khôn ngoan được trao phó coi sóc Thánh Gia”, để thay quyền Chúa Cha “gìn giữ Đức Giêsu Kitô, Con Một Chúa Nhập thể bởi quyền năng Thánh Thần”.

2/. Phụng Vụ các Giờ Kinh

Khi bàn về lịch sử lễ kính Thánh Giuse, chúng ta đã đề cập đến sự phát triển của Sách Nguyện về lễ này. Vào thế kỷ XIII, một đan viện Dòng Benedicto ở Liège đã có một bài nguyện riêng, và vào năm 1399, các tu sĩ Dòng Phanxicô đã đọc các giờ kinh với chín bài đọc. Đức Giáo Hoàng Sixto IV (1471-1484) thuộc Dòng Phanxicô đã đưa các bản văn này vào Sách Nguyện Roma. Nhiều sách nguyện khác có kinh Phụng Vụ kính Thánh Giuse vào thế kỷ XVI. Sau Công Đồng Trento, những bản văn được thống nhất dưới thời Đức Giáo Hoàng Piô V (1566-1572) nhưng bản văn đầy đủ hơn được Đức Giáo Hoàng Clemente XI công bố ngày 4/2/1714 mà người ta nói do chính ngài soạn ra. Những bản văn này không thay đổi trong hai thế kỷ rưỡi, cho đến khi duyệt lại sách Phụng Vụ Giờ Kinh năm 1971, bao gồm những bản văn mới cho ngày lễ 19/3, lễ Thánh Gia, lễ Thánh Giuse lao động.

3/. Lễ ngoại lịch kính Thánh Giuse

Lễ ngoại lịch kính Thánh Giuse bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ XIII, và được đưa vào nhiều Sách Lễ xuất bản vào thế kỷ XVI như ở Orleans, Paris, Strasbourg, Salzburg, Chalon va Reims.

Sắc lệnh năm 1883 cho phép các công nghị Giáo phận và các cộng đoàn tu trì sáng tác các kinh nguyện ngoại lịch, và ấn định những lễ ngoại lịch vào các ngày khác nhau trong tuần, riêng ngày thứ Tư là: “Thánh Giuse, bạn của Đức Trinh Nữ Maria, bảo trợ của Hội Thánh Công giáo”. Tiêu đề này xuất hiện ở phần “Lễ nhớ ngoại lịch quanh năm” trong Sách Lễ Roma, được xuất bản dưới thời Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, nhưng trong ấn bản của Đức Giáo Hoàng Benedicto XV, tiêu đề chỉ còn giữ lại “Lễ Thánh Giuse” mặc dầu các bản văn không thay đổi. Thỉnh thoảng, Tòa Thánh ban phép cho một vài Hội Dòng được cử hành lễ nhớ ngoại lịch vào những dịp không bị ngăn trở bởi lịch phụng vụ.

Trong Sách Lễ Roma năm 1970, các thánh lễ ngoại lịch không còn gắn với ngày nào đặc biệt trong tuần nữa, nhưng được xếp theo thứ tự hệ thống cấp bậc: bắt đầu với lễ Chúa Ba Ngôi, Đức Maria ở vị trí thứ tám, các thiên thần ở vị thế thứ chín, Thánh Giuse được xếp vào hàng thứ mười, trước các tông đồ.

Ca Nhập Lễ trích từ Lc 12,42 và ca Hiệp Lễ lấy từ Mt 25,21 nhằm trình bày Thánh Giuse như mẫu người đầy tớ trung tín mà Đức Kitô nói đến. Lời tổng nguyện của bản văn cũ vẫn duy trì, trong khi Lời Nguyện trên lễ vật và Lời Nguyện hiệp lễ là những bản văn mới: “xin vì mẫu gương và lời chuyển cầu của Thánh Giuse, người công chính và vâng phục cùng là thừa tác của các mầu nhiệm cứu độ giúp chúng ta sống Thánh Thiện và công chính trong tác vụ của mình”.

B. Lễ Thánh Gia

Lòng tôn kính Thánh Gia “tam vị ở trần gian”: Đức Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse, mới phát triển ở những thế kỷ gần đây. Vào thế kỷ XVII, việc đạo đức đã trải rộng ở Âu châu và Canada, được hỗ trợ bởi những nhân vật như chân phước Marie de l?Incarnation Dòng Ursuline, cha Jean Jacques Olier sáng lập Tu Hội Xuân Bích, và cha Pierre Marie Chaumonot, SJ. Năm 1665, Giám mục Nouvelle France, chân phước Francois Xavier de Montmorency-Laval, đã cho phép huynh đoàn Thánh Gia Québec cử hành một lễ kính vào ngày 22/1. Khi lễ kết hôn Thánh Giuse được mừng vào ngày này, lễ Thánh Gia được dời lên Chúa Nhật thứ hai sau lễ Hiển Linh. Đặc ân này đã sớm mở rộng tới toàn thể Giáo phận với bài lễ và kinh nguyện riêng.

Năm 1865, bài lễ và kinh nguyện riêng đã được phép sử dụng trong Giáo phận Montréal, rồi cho toàn thể tỉnh Québec.

Tông Thư Neminem Fugit năm 1892 của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã phê chuẩn những quy chế của Hiệp hội Thánh Gia quốc tế. Vào ngày giáp năm Tông thư này, đáp lại những lời thỉnh cầu của nhiều Giám mục, một thánh lễ và kinh Phụng Vụ mới về lễ này đã được chấp thuận với những bài thánh ca mà người ta cho rằng do chính Đức Giáo Hoàng Lêô XIII sáng tác: Kinh Chiều “O lux beata caelitum”, Kinh Sách “Sacra iam splendent” vàKinh Sáng “O gente felix hospita”. Tất cả những nơi và tổ chức đã được phép mừng lễ có thể sử dụng những bản văn này, và dĩ nhiên những Giáo phận và Hội Dòng khác cũng có thể áp dụng phép này. Giáo quyền đã thống nhất việc mừng ngày lễ vào Chúa Nhật thứ ba sau lễ Hiển Linh.

Năm 1893, những Giáo phận sau đây đã xin và đã được phép cử hành lễ này: Albano, Rome và các vùng phụ cận, Andria, Melfi, Rapolla, Acquapendente, Ariano, Chioggia, Lipari, Caiazzo, Trezzo và Trevisio trong Tổng Giáo phận Milan, tất cả ở trong nước Italia; Lavant ở Nam Tư; Tours và Lyons ở Pháp; Brugge ở Bỉ; Eichstatt ở Đức; năm 1894 tại Litomerice ở Tiệp Khắc; năm 1903 Biella ở Italia. Các Hội Dòng được phép cử hành trong năm 1893-1894 bao gồm Dòng Phanxicô, Dòng Chúa Cứu Thế, Dòng Gioan Thiên Chúa, Dòng Benedicto Silvestrini và các Tỉnh Dòng Đaminh ở đảo Sicilia và Malta. Lễ được xếp vào bậc “duplex maior”. Tại Thánh địa, nhà thờ Thánh Giuse ở Nazaret và Thượng Phụ Latin ở Jerusalem được phép cử hành lễ ngoại lịch về Thánh Gia trong một số ngày.

Năm 1914, lễ Thánh Gia được ấn định mừng vào ngày 19/1. Dưới thời Đức Giáo Hoàng Benedicto XV, theo lời thỉnh cầu của nhiều vị Giám mục, lễ này đã mở rộng cho toàn thể Hội Thánh với bậc “duplex maior”, vào Chúa Nhật trong tuần bát nhật lễ Hiển Linh với những đặc ân giống như ngày Chúa Nhật. Trong lịch canh tân 1969, lễ này là một trong bốn lễ được chỉ định thường xuyên mừng vào ngày Chúa Nhật, ấn định vào Chúa Nhật trong tuần bát nhật Giáng sinh hoặc vào ngày 30/12 trong những năm không có ngày Chúa Nhật trong tuần bát nhật.

Các bài đọc mới được thêm vào cho chu kỳ ba năm của Thánh lễ là: Huấn Ca 3, một vài câu của Colose 3 và hai đoạn Tin Mừng. Sách Lễ năm 1969 đã thay đổi các Lời Nguyện. Năm 1971, những bản văn mới cho Phụng vụ các giờ kinh, bao gồm bài đọc trích ở diễn từ của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, đã hoàn tất việc sửa đổi lễ này.

C. Lễ Thánh Giuse lao động

Lễ này có nguồn gốc gần đây, mặc dầu việc chọn Thánh Giuse làm bổn mạng giới công nhân và lao động có một lịch sử lâu dài. Ở đây, chúng ta truy tầm một vài dấu vết trong hai thế kỷ vừa qua. Thí dụ trong diễn từ năm 1871, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã nhìn nhận rằng, việc đặt tên Thánh Giuse cho một Hiệp hội tìm kiếm việc làm cho những người thất nghiệp thật là thích hợp, bởi vì Người đã nuôi sống Thánh Gia. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII dành một vài đoạn trong Thông điệp Quamquam Pluries cho Thánh Giuse như là kiểu mẫu và bổn mạng của những người lao động. Năm 1905, Đức Giáo Hoàng Piô X ban ân xá cho một lời cầu nguyện với Thánh Giuse, đề cao việc Thánh Nhân nghỉ việc vào ngày của Chúa và là gương mẫu cho tất cả các công nhân bắt chước. Năm sau, ngài cũng ban ân xá cho ai đọc kinh cầu nguyện với Thánh Giuse, gương mẫu của các công nhân. Kinh cầu nguyện nổi tiếng này do chính ngài sáng tác. Năm 1909, kinh cầu Thánh Giuse được chấp thuận bao gồm lời cầu “gương mẫu thợ thuyền”. Tự sắc Bonum Sane do Đức Giáo Hoàng Benedicto XV ban hành năm 1920 đã đặt Thánh Giuse như mẫu gương cho những người lao động để họ có thể học hỏi nơi Người.

Trong một bài huấn từ ngày 11/3/1945, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã đặt các Hiệp hội những người lao động Công giáo Italia (ACLI) dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse. Để kỷ niệm mười năm biến cố này, ngài đã loan báo vào ngày 1/5/1955 việc thiết lập lễ Thánh Giuse lao động trong phụng vụ, được cử hành ngày đầu tiên của tháng Năm, để Kitô hóa ngày lao động trần thế. Ngày lễ muốn trưng bày người thợ khiêm tốn Nazaret như mẫu gương cho các người lao động, giúp họ nhận ra phẩm giá thật sự của sự làm việc và lôi kéo họ đến gần Đức Kitô.

Ngày 1/5/1956 những bản văn mới cho Sách Lễ và Sách Nguyện được ban hành với tiêu đề: “Lễ trọng Thánh Giuse lao động, chồng của Đức Trinh Nữ Maria, hiển tu”. Một đề tài quan trọng, là công việc của Thánh Giuse tiếp tục công việc của Thiên Chúa trong việc tạo dựng thế giới. Đặc biệt, trong Thánh Thi kinh Sáng (Te, pater Ioseph, ópifex), chúng ta kêu xin Thiên Chúa là Cha và là thợ đã làm nên tất cả mọi sự, đến giúp đỡ chúng ta trong công việc của mình, biết bắt chước Thánh Giuse, người cũng là cha và là thợ. Chín bài đọc trích từ sách Sáng Thế 1-3, Đức Giáo Hoàng Piô XII, Thánh Alberto Cả, cùng với Colose 3 và Matthew 13,54-58 được dùng cho các bài đọc trong thánh lễ và các giờ kinh nhỏ.

Bậc lễ trọng chỉ kéo dài một thời gian ngắn, bởi vì từ năm 1969, lễ này chỉ còn là lễ nhớ tự do. Tuy nhiên, các bài đọc của Sách Lễ vẫn giữ như cũ, chỉ thêm vào một vài bản văn mới. Bản văn Giờ Kinh Phụng Vụ đã chọn số 33-34 của Hiến chế Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng) cho bài đọc kinh Sách, và soạn ra những lời cầu mới cho kinh Sáng và kinh Chiều. Thánh Giuse được nhìn nhận như là bổn mạng và gương mẫu cho các người thợ, và mặc dầu bậc lễ bị rút lại là lễ nhớ tự do, lễ này còn được cử hành long trọng tại nhiều nơi trên thế giới.

Trên đây là những lễ được mừng trong toàn thể Giáo Hội; tiếp theo là những lễ được mừng ở một vài địa phương hay thuộc về quá khứ.

D. Lễ kết hôn của Đức Maria và Thánh Giuse

Tại Công Đồng Constance năm 1416, cha Jean Gerson đã đề nghị các linh mục cử hành một lễ ngoại lịch kính nhớ việc kết hôn của Đức Maria và Thánh Giuse vào ngày thứ Năm của tuần III mùa Vọng, vì thích hợp với đoạn Tin Mừng của ngày này. Năm 1474, cha Bernardino Bustis thuộc Dòng Phanxicô đã viết một kinh Phụng Vụ cho ngày lễ. Năm 1537, các tu sĩ Dòng Phanxicô mừng lễ vào ngày 7/3, và chẳng bao lâu, Dòng Tôi Tớ Đức Bà mừng ngày 8/3, Dòng Đaminh vào ngày 22/1.

Năm 1684, Đức Giáo Hoàng Innocente XI cho phép cử hành trong vương quốc của Leopold I, và sau đó ở Tây Ban Nha. Ở Pháp và Canada, lễ mừng vào ngày 22/1, trong khi những huynh đoàn ở Ba Lan mừng ngày 23/1. Năm 1725, Đức Giáo Hoàng Benedicto XIII mở rộng lễ này cho các quốc gia thuộc quyền Giáo Hoàng và ấn định ngày lễ vào ngày 23/1.

Trong thế kỷ XIX và XX, Tòa Thánh ban phép đặc biệt cho nhiều nơi cử hành lễ, thông thường vào ngày 23/1, nhưng đôi khi vào các ngày khác. Ví dụ năm 1859, lễ được ghi vào ngày 11/2 trong sách kinh nguyện riêng cho Tổng Giáo phận Fribourg (và ngày 13/2 theo ấn bản 1894) và ngày 26/11 cho Giáo phận Cordoba.

Năm 1961, Thánh Bộ Nghi Lễ ban hành một Huấn thị loại bỏ các lễ đặc biệt trong những lịch riêng, trong đó có lễ kết hôn của Đức Maria và Thánh Giuse, ngoại trừ những nơi có một lý do đặc biệt để cử hành. Trong thời kỳ canh tân phụng vụ hậu Công Đồng Vatican II, lễ này một lần nữa được cho phép trong những lịch phụng vụ riêng. Ví dụ, năm 1989, Dòng Hiến Sĩ Thánh Giuse (Oblati di San Giuseppe) được phép cử hành lễ “kết hôn thánh của Đức Maria và Thánh Giuse” như lễ kính vào ngày 23/1, với những bản văn riêng, trong đó có kinh Tiền Tụng như sau:

“Cha đã cho Hội Thánh niềm vui cử hành lễ kết hôn Thánh Thiện của Đức Maria và Thánh Giuse: nơi Đức Maria, đầy ân sủng và xứng đáng là mẹ Con Một của Cha, Cha đã báo cho biết sự khởi đầu của Hội Thánh, vị hôn thê xinh đẹp của Đức Kitô; Cha đã chọn Thánh Giuse, người tôi tớ trung tín và khôn ngoan như là chồng của đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, và đặt người làm đầu gia đình của Cha, để trông coi người Con duy nhất của Cha, đấng được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”.

E. Lễ Thánh Giuse bảo trợ Hội Thánh

Năm 1416, cha Jean Gerson, trong bài giảng cho các Nghị phụ của Công Đồng Constance, đã khẩn cầu Thánh Giuse như là bảo trợ của Hội Thánh, với niềm hy vọng được thấy sự hiệp nhất trong Hội Thánh đang bị chia rẽ do sự hiện diện của hai Giáo Hoàng giả và một Giáo Hoàng chính thức. Năm 1621, Tổng Hội Dòng Carmel đã chọn Thánh Giuse làm bảo trợ và người cha của toàn thể Hội Dòng. Năm 1680, Tòa Thánh đã ban phép cho Dòng Carmel cử hành lễ Thánh Giuse là bảo trợ. Lễ được cử hành vào Chúa Nhật thứ Ba sau lễ Phục Sinh với những bản văn riêng cho thánh lễ và các Giờ Kinh Phụng Vụ. Lễ này đã mở rộng cho Dòng Augustino năm 1700, Dòng Đức Mẹ Chuộc Kẻ Làm Tôi năm 1702, Giáo phận Mexico năm 1703; chẳng bao lâu sau đó lan đến nhiều Dòng tu và các Giáo phận khác. Vào giữa thế kỷ XIX, lễ đã lan rộng đến nỗi, vào ngày 10/9/1847, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã châu phê cho toàn thể Hội Thánh Sách Lễ và Sách Nguyện riêng cho lễ này, được cử hành vào Chúa Nhật thứ Ba sau lễ Phục Sinh như lễ bậc “duplex secundae classis”. Sắc lệnh quan trọng ngày 8/12/1870 công bố, Thánh Giuse bảo trợ toàn thể Hội Thánh tăng thêm lý do thần học cho việc cử hành, mặc dầu không thêm gì long trọng cho phụng vụ.

Năm 1911, Sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô X đã ấn định “Lễ trọng Thánh Giuse, hiển tu, bảo trợ toàn thể Hội Thánh” được cử hành vào Chúa Nhật thứ Ba sau lễ Phục Sinh, như lễ bậc “duplex primae classis” với tuần bát nhật. Với những thay đổi năm 1913, nhằm tách rời các ngày lễ khỏi ngày Chúa Nhật, lễ này được ấn định mừng vào ngày thứ Tư trước Chúa Nhật thứ Ba sau lễ Phục Sinh, tuy vẫn duy trì tuần bát nhật và bậc lễ.

Năm 1956, sau khi thiết lập lễ Thánh Giuse lao động, lễ này đã bị bỏ đi, nhưng ít là tiêu đề “Bảo trợ của toàn thể Hội Thánh” được giữ lại bằng cách gắn thêm cho ngày lễ 19/3. Năm 1957, vì Dòng Carmel đã mừng lễ này hơn ba trăm năm, nên được phép giữ lại trong lịch canh tân của Dòng như lễ bậc “duplex primae classis” với kinh Phụng Vụ và thánh lễ riêng vào ngày thứ Tư trước Chúa Nhật thứ Ba sau lễ Phục Sinh.

Trong lịch phụng vụ 1969, lễ ngày 19/3 được đặt tên “Thánh Giuse, chồng của Đức Maria” đã bỏ đi tiêu đề “bảo trợ Hội Thánh”.

Từ năm 1979, nhiều thỉnh cầu khôi phục lại tiêu đề do các Bề trên Tổng Quyền, các Trung tâm và Hội thảo quốc tế về Thánh Giuse đệ trình lên Tòa Thánh, nhưng không được chấp thuận. Năm 1981, Thánh Bộ Bí Tích Và Phụng Tự lặp lại phúc thư của Hồng y Villot năm 1973, theo đó, tước hiệu “Bảo trợ” nên để trong lịch riêng hơn là trong lịch phổ quát. Cha Gauthier đã lưu ý rằng, trong những ấn bản Sách Lễ Roma bằng tiếng Pháp, một số các thánh bảo trợ được ghi trong lịch riêng như các vị thánh bổn mạng của nước Pháp, Luxemburg và châu Âu.

Trong Tông huấn Redemptoris Custos, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II xác nhận cách chính thức sự quan trọng của tước hiệu “Bảo trợ Giáo Hội ngày nay” như sau:[73]

“Giáo Hội luôn phải kêu cầu Thánh Giuse bảo trợ, không những để bảo vệ Giáo Hội khỏi những nguy hiểm không ngừng nẩy sinh, nhưng nhất là còn để nâng đỡ Giáo Hội trong những nỗ lực canh tân nhằm rao giảng Tin Mừng cho thế giới cũng như tái rao giảng Tin Mừng”.

F. Lễ nhớ cuộc trốn sang Ai Cập

Dòng Chúa Cứu Thế đã cử hành lễ này vào Chúa Nhật thứ Tư của tháng Tư. Năm 1856, lễ này được dời vào ngày 17/2. Giáo phận Castellammare di Stabia (gần Napoli, Italia) đã xin phép cử hành lễ này vào năm 1866 nhưng bị từ chối. Năm 1937, giáo quyền đã cho phép cử hành các lễ riêng tại đền Thánh Giuse ở Allex (Drome) bên Pháp: hoặc là lễ kết hôn ngày 23/1 hay lễ nhớ cuộc trốn sang Ai Cập ngày 17/2. Năm 1958, nhà nguyện Thánh Giuse ở Montréal đã được phép cử hành thánh lễ riêng như lễ “duplex maior”. Lời thỉnh cầu của họ ghi nhận rằng, đây là một biến cố trong đời sống của Chúa, trong đó Thánh Giuse đóng vai trò chính như là “Đấng bảo trợ cho Đức Kitô”. Những bản văn của lễ này là Isaia 19,20-22 và Matthew 2,13-15. Năm 1961, chỉ thị về việc sửa đổi các lịch phụng vụ riêng đã loại bỏ lễ này, ngoại trừ những nơi có sự liên kết đặc biệt của thánh lễ với biến cố này.

G. Tên Thánh Giuse trong nghi thức cầu cho bệnh nhân và người hấp hối

Năm 1920, “Hiệp hội Thánh Giuse chết lành” đã nhận được phép thêm vào những lời cầu nguyện đặc biệt đến Thánh Giuse trong lễ ngoại lịch cho người hấp hối, và cho người chết lành ở nhà thờ của họ tại khu phố Trionfale, Roma; và chẳng bao lâu phép này được mở rộng cho tất cả các linh mục và các nhà của Hiệp hội.

Vào ngày 9/8/1922, Thánh Bộ Nghi Lễ đã thêm vào sách Nghi Thức Roma những lời cầu khẩn đến Thánh Giuse trong nghi thức xức dầu thánh (nay là xức dầu bệnh nhân), trong nghi thức trao phó linh hồn đang hấp hối và trong những lời cầu nguyện cho người mới qua đời.

Năm 1964, Tòa Thánh phê chuẩn cho vùng Canada nói tiếng Pháp những lời cầu khẩn Thánh Giuse trong nghi thức Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, trong kinh cầu phó dâng linh hồn người đang hấp hối và người vừa tắt thở. Năm 1972, Nghi Thức Xức Dầu và chăm sóc mục vụ cho bệnh nhân ban hành cho toàn thể Giáo Hội có nhắc tới Thánh Giuse trong những lời cầu nguyện phó dâng người hấp hối và người sinh thì.

H. Tên Thánh Giuse trong Kinh Nguyện Thánh Thể

Ít là từ năm 1815, nhiều thỉnh cầu được gởi về Roma để xin ghi tên Thánh Giuse vào trong các lời cầu nguyện của thánh lễ, bao gồm trong Lễ Quy (nay gọi là Kinh Nguyện Thánh Thể). Trong nhiều năm, hàng triệu chữ ký đã được thu thập cho lời thỉnh cầu này. Năm 1868, cha Lataste, OP. đã viết thư cho Đức Thánh Cha sẵn sàng dâng hiến chính mạng sống của mình cho việc công bố Thánh Giuse là bảo trợ của Hội Thánh, và ghi tên Người vào trong Lễ Quy. Đức Giáo Hoàng Piô IX đã chấp thuận đề nghị thứ nhất để đáp lại những thỉnh cầu của các Nghị phụ Công Đồng Vatican I, nhưng ngài đã không ghi tên Thánh Giuse vào trong Lễ Quy. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã vui mừng vì nhiều lời thỉnh cầu gởi đến ngài, nhưng ngài cho rằng, không thích hợp để thay đổi một kinh nguyện phụng vụ đã có từ lâu đời. Đức Giáo Hoàng Piô X đã trả lời bằng miệng với Tổng Giám mục Camilli rằng, mặc dầu đề nghị bị từ chối năm 1892, nhưng ngài có thể tiếp tục thúc đẩy phong trào ghi tên Thánh Giuse vào trong Lễ Quy.

Khi người ta đệ trình những thỉnh cầu này lên Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, ngài cảm thấy đã đến thời cơ thuận tiện và ngài đã thông báo cho Thánh Bộ Nghi Lễ biết ý kiến riêng của ngài về vấn đề này. Tại Công Đồng Vatican II, nhiều Giám mục đã thỉnh cầu việc ghi danh bằng những lời đề nghị mạnh mẽ. Ngày 13/11/1962, Đức Thánh Cha đã gây ngạc nhiên cho các Nghị phụ, qua hồng y Quốc vụ khanh, ngài thông báo sẽ thêm câu “và Thánh Giuse, bạn của Đức Trinh nữ Maria” ngay liền sau tên Maria trong Lễ Quy. Ngài ước mong quyết định này có hiệu lực vào ngày 8/12 như biểu lộ ước muốn của Công Đồng. Ngày 30/12/1962, một ấn bản mới của Sách Lễ Roma đã ghi thêm tên Thánh Giuse trong đó. Sau đó, Đức Giáo Gioan XXIII đã tặng nhà thờ Kalisz, Ba Lan, một trong những chiếc nhẫn của ngài để tưởng nhớ biến cố này, và chiếc nhẫn này đã được gắn vào hình Thánh Giuse vào dịp lễ Thánh Gia.

Tiếc rằng, 5 năm sau đó, ba Kinh Nguyện Thánh Thể mới được ban hành lại không có tên Thánh Giuse.

I. Tên Thánh Giuse trong kinh cầu các thánh

Thành phố Bologna là địa điểm đầu tiên đưa tên Thánh Giuse vào trong kinh cầu các thánh vào năm 1359. Vào thế kỷ XVI, Dòng Đaminh, Carmel và nhiều Dòng khác đã ghi tên Thánh Giuse vào trong kinh cầu. Tuy nhiên, sau việc canh tân của Công Đồng Trento dưới thời Đức Giáo Hoàng Piô V, tên Thánh Giuse đã bị bỏ đi, do lỗi của nhà in hơn là do Sắc lệnh của cấp thẩm quyền. Sau khi đón nhận vô số thỉnh cầu và theo lời khuyên của Hồng y Lambertini (Giáo Hoàng Benedicto XIV tương lai) vào ngày 19/12/1726, Đức Giáo Hoàng Benedicto XIII đã thêm tên Thánh Giuse vào trong kinh cầu, sau tên Đức Maria, các thiên thần và Thánh Gioan Tiền Hô, nhưng trước tất cả các vị thánh khác.

II. NHỮNG VIỆC ĐẠO ĐỨC DÂN GIAN

Chúng tôi chỉ giới hạn vào một vài hình thức quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam và bỏ qua những tập tục chỉ lưu hành ở vài nước châu Âu.

A. Những kinh nguyện

1/. Kinh cầu Thánh Giuse

Bản kinh cầu Thánh Giuse lâu đời nhất là của cha Jerónimo Gracián Dòng Carmel, xuất bản ở Roma năm 1597 bằng tiếng Italia và Tây Ban Nha. Có thể ngài đã lấy từ quyển sách nhỏ về bảy sự buồn cùng bảy sự vui của Thánh Giuse do Hiệp hội các thợ mộc in ở Perugia. Tuy nhiên, dường như ngài đã thêm vào nhiều lời cầu, và ấn bản tiếng Tây Ban Nha có 49 lời cầu trong khi bản tiếng Italia chỉ có 21 lời.

Trong thời gian này, nhiều kinh cầu của các thánh khác đã xuất hiện. Một vài bản kinh chứa đựng những lời cầu sai lầm về thần học; vì thế, năm 1601 dưới thời Đức Giáo Hoàng Clemente VIII, Tòa Thánh đã ra sắc lệnh tất cả các kinh cầu, ngoại trừ những kinh cầu đã được chấp thuận (đó là kinh cầu Các Thánh và kinh cầu Đức Bà Loreto) phải đệ trình để được duyệt y trước khi cho sử dụng công khai. Các hàng giáo phẩm tại Italia và Tây Ban Nha giải thích và áp dụng Sắc lệnh này cách chặt chẽ, nên không sử dụng kinh cầu Thánh Giuse trong hai nước này. Tại các nước khác ở Âu châu, hàng giáo phẩm giải thích rằng, Sắc lệnh chỉ áp dụng cho các kinh cầu được đọc nơi công cộng chứ không áp dụng cho việc sử dụng riêng tư. Có hơn ba mươi phiên bản kinh cầu khác nhau, những bản kinh cầu ảnh hưởng nhất là của: chị María de San José Dòng Carmel (1548-1603), người bạn thân của Thánh Terexa Avila và cha Gracián; Thánh Francois de Sales trong lá thư gửi cho thánh nữ Gioanna Chantal năm 1614,.v.v… Trong những kinh cầu đa dạng, một vài lời cầu ca ngợi Thánh Giuse, nhìn nhận vai trò của Người trong thời thơ ấu của Chúa Kitô, sự hiệp nhất của Người với Đức Maria và những đặc ân của Người như là người chủ của Thánh Gia. Một vài kinh tóm tắt đời sống và sự ưu việt của Người, trong khi những kinh khác liệt kê những ân huệ chính với ước vọng sẽ đạt được nhờ lời chuyển cầu của Người. Một vài kinh chứa đựng những ý kiến đạo đức cá nhân chưa được Hội Thánh tuyên bố, ví dụ như sự thánh hóa của Người trong lòng mẹ và thân xác Người được đưa về trời, nhưng những điều này không bị Hội Thánh phản đối bởi vì nó phản ánh những ý tưởng thần học của thời đại.

Vào đầu thế kỷ XX, nhiều Giám mục tại châu Âu và châu Mỹ xin Tòa Thánh phê chuẩn kinh cầu để được đọc công khai. Sau nhiêu lần thỉnh nguyện bị từ chối, sau cùng Tổng Viện phụ Dòng Trappe, cha Sébastien Wyart (+ 1904) đã soạn một kinh cầu để xin phê chuẩn. Tuy nhiên theo nhiều học giả, công thức của kinh cầu được Đức Giáo Hoàng Piô X châu phê ngày 18/3/1909 và được lưu hành hiện nay là của Đức Hồng y A.M. Lépicier.

Kinh cầu Thánh Giuse dựa theo khung sườn của kinh cầu Đức Bà, với bố cục như sau:

Sau phần dẫn nhập (kêu cầu Chúa Ba Ngôi, và Đức Mẹ), là lời khẩn nài Thánh Giuse kèm theo “25 danh hiệu”. Có thể phân chia ra thành 6 nhóm:

– a/. Sự Thánh Thiện (số 1);

– b/. Nguồn gốc: dòng dõi vua David, và miêu duệ các tổ phụ (số 2-3);

– c/. Các chức vụ được ủy thác đối với Đức Maria (số 4-5) và với Đức Giêsu (số 6-8);

– d/. Các nhân đức nội tâm, gồm 6 nhân đức: công chính, khiết tịnh, khôn ngoan, mạnh bạo, vâng lời, trung thành (số 9-14);

– e/. Các nhân đức trong tương quan với tha nhân: nhẫn nại, thanh bần, cần cù lao động, mẫu gương cho các gia trưởng (số 15-18);

– f/. Bảo trợ: những người trinh khiết (số 19), các gia đình (số 20), những người túng quẫn (số 21), những người ốm đau và lâm tử (số 22-23), chống cự ma quỷ (số 24), bổn mạng Hội Thánh (số 25).

2/. Suy gẫm “bảy sự buồn” cùng “bảy sự vui” Thánh Giuse

Năm 1536, cha Giovanni da Fano (+ 1539), một tu sĩ Dòng Capuchino người Italia, đã phổ biến một việc đạo đức gọi là “bảy kinh Lạy Cha của Thánh Giuse” trong một phụ lục của cuốn sách “De arte unione”. Cha nói rằng, chính Thánh Giuse đã khuyến khích thói tục ấy, khi hiện ra để cứu hai tu sĩ bị đắm tàu ở Flandre. Kinh này họa theo việc suy gẫm bảy sự đau đớn Đức Mẹ do các tu sĩ Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ phổ biến.

Công thức hiện tại được gán cho chân phúc Gennaro Sarnelli (+ 1744). Vào ngày 9/12/1819, Đức Giáo Hoàng Piô VII ban ân xá cho việc đạo đức này. Ngoài ra, ngày 22/1/1836, Đức Giáo Hoàng Gregorio XVI cũng ban thêm ân xá cho việc thực hành “Bảy ngày Chúa Nhật kính nhớ bảy sự buồn cùng bảy sự vui của Thánh Giuse”.

Bảy sự vui buồn Thánh Giuse suy gẫm những biến cố vui buồn của Thánh Giuse, dựa theo những trình thuật Tin Mừng thơ ấu của Thánh Matthew và Thánh Luca, đó là:

– Thứ nhất, Đức Mẹ mang thai Đức Giêsu, gây ra nhiều băn khoăn cho Thánh Giuse, nhưng sau đó được thiên thần giải thích.

– Thứ hai, khi chứng kiến cảnh khó nghèo của Đức Giêsu khi sinh ra tại Bethlehem.

– Thứ ba, khi làm phép cắt bì cho Đức Giêsu.

– Thứ tư, khi cụ Simeon tiên báo những đau khổ của Đức Giêsu.

– Thứ năm, khi trốn qua Ai Cập.

– Thứ sáu, khi trở về Nazareth.

– Thứ bảy, khi lạc mất và tìm lại Đức Giêsu trong đền thờ.

Sau mỗi cảnh suy niệm, đọc một kinh Lạy Cha và Kính Mừng, có thể thêm kinh Sáng Danh.

B. Những thời điểm dâng kính Thánh Giuse

Ngoài những lễ phụng vụ, những kinh đọc, truyền thống dân gian còn dành vài thời điểm kính ngài, đó là: ngày thứ Tư hàng tuần và tháng Ba dương lịch.

1/. Thứ tư hàng tuần

Tục lệ Kitô giáo dành ngày thứ Sáu để kính nhớ cuộc Tử nạn của Chúa, ngày thứ Bảy kính Đức Mẹ, và ngày thứ Tư kính Thánh Giuse. Năm 1876, các sư huynh giáo dục Dòng Mariste được phép tưởng nhớ Thánh Giuse mỗi ngày thứ Tư trong kinh Tiểu nhật khóa kính Đức Mẹ. Năm 1883, Sách Lễ Roma và Sách Nguyện đã xếp Thánh lễ ngoại lịch kính Thánh Giuse vào ngày thứ Tư.

Dưới khía cạnh lịch sử, các học giả không thấy một mối liên hệ nào giữa ngày thứ Tư với Thánh Giuse. Vào những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, các tín hữu ăn chay mỗi tuần hai ngày (thứ Tư và thứ Sáu), khác với người Do Thái cũng ăn chay mỗi tuần hai ngày, nhưng là vào thứ Hai và thứ Năm. Theo sự giải thích của vài Giáo phụ, ngày thứ Sáu tưởng niệm Đức Giêsu chịu chết trên thập giá, còn ngày thứ Tư tưởng nhớ ngày Chúa bị Judas phản bội. Không rõ từ hồi nào người ta dành thứ Tư để kính Thánh Giuse và vì lý do gì. Tuy vậy, cũng có người bóp trán để giải thích thế này. Ngày thứ Tư là ngày ở giữa tuần lễ, với nhịp độ làm việc cao, khác với nhịp độ uể oải hay cầm chừng của đầu tuần hay cuối tuần. Như vậy đáng để dành cho Thánh Giuse, gương mẫu của sự cần cù làm việc.

2/. Tháng ba dương lịch: tháng Thánh Giuse

Lễ Thánh Giuse được mừng vào ngày 19/3 dần dần đưa đến sự phát triển nhiều việc đạo đức kính Thánh Nhân.

a/. Trước tiên là tập tục chuẩn bị ngày lễ với một tuần cửu nhật

Như đã nói, sự phát triển lòng đạo đức kính Thánh Giuse đã tập trung vào ngày lễ chính của Người 19/3. Việc cử hành được nối dài với tuần bát nhật và được chuẩn bị bởi tuần chín ngày. Ngày 4/3/1713, Đức Giáo Hoàng Clemente XI ban ân xá cho những người tham dự tuần cửu nhật được tổ chức tại nhà thờ Thánh Inhaxio tại Roma.

b/. Kế đó người ta kéo dài việc tôn kính Thánh Giuse ra suốt tháng Ba dương lịch

Năm 1802, giáo xứ Thánh Augustino tại Modena (Italia) in một quyển sách nhỏ với tựa đề: “Tháng hoa huệ, tháng ba dâng hiến Thánh Giuse” (Il mese del Giglio, ossia il mese consacrato a Giuseppe). Kể từ đó, nhiều sách tương tự được xuất bản tại nhiều nơi, nổi tiếng nhất là tác phẩm của Giuseppe Marconi xuất bản tại Roma năm 1810 (Il mese di marzo consacrato al glorioso patriarca San Giuseppe) và được dịch ra nhiều ngôn ngữ.

Ngày 27/4/1865, Đức Giáo Hoàng Piô IX ban ân xá cho những ai làm viêc đạo đức trong một tháng để kính Thánh Giuse. Sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô IX ngày 4/2/1877 cho phép tính tháng Thánh Giuse từ ngày 16/2 đến ngày 19/3. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII trong Thông điệp Quamquam Pluries năm 1889 đã khuyên nhủ thực hành chung việc đạo đức hằng ngày trong tháng Ba để tôn kính Thánh Giuse.

c/. Ngày lễ được mừng vào ngày 19/3 đưa tới một tập tục khác là kính nhớ Thánh Giuse vào ngày 19 mỗi tháng.

Năm 1884, Tòa Thánh phê chuẩn thói quen lâu đời của Giáo phận La Paz (Bolivia) đọc kinh nguyện và cử hành thánh lễ ngoại lịch vào ngày 19 của mỗi tháng khi không bị ngăn trở. Những đặc ân tương tự cũng được ban cấp cho nhiều chỗ khác, tựa như nhà nguyện của đại học Guatemala và một đan viện Carmel bên Tây Ban Nha.

***

THAY LỜI KẾT

Trong bài viết này, chúng tôi đã trình bày một đường hướng thần học về Thánh Giuse dựa theo Tông huấn Redemptoris Custos của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Dĩ nhiên là còn rất nhiều thiếu sót.

– Thứ nhất, cần phải đọc Tông huấn này trong toàn bộ tư tưởng của Đức Thánh Cha, mà tựa đề đã gợi lên xoay quanh “Đấng Cứu Chuộc”: “Redemptor hominis”, “Redemptoris mater”, “Redemptoris missio”.

– Thứ hai, cần phải bổ túc với những văn kiện khác của ngài nhắc đến Thánh Giuse, đặc biệt về gia đình (Familiaris consortio), về lao động (Laborem exercens), và các bài giảng nhân lễ kính Thánh Giuse.

– Thứ ba, cần chấp nhận còn nhiều đường hướng khác nữa để nghiên cứu về Thánh Giuse. Tông thư Redemptoris custos muốn nêu bật mối tương quan của Người với Đức Kitô (Mầu nhiệm cứu chuộc), Đức Maria, Hội Thánh. Vai trò của Chúa Thánh Linh chỉ mới phớt qua. Thánh Linh không chỉ tác động nơi Đức Maria trong việc Ngôi Lời thụ thai, nhưng chắc hẳn là cả nơi Thánh Giuse, qua việc nâng đỡ đức tin cho Người để đón nhận ý Chúa (số 3-4), qua việc tăng cường lòng nhiệt thành hy sinh phục vụ Đức Kitô (số 8), qua việc thánh hiến tình yêu với Đức Maria (số 18-19).

Bài viết này chỉ là một thứ nhập đề vào việc nghiên cứu thần học về Thánh Giuse, chứ chưa thể kết thúc. Trước khi kết thúc, chúng tôi xin giới thiệu vài địa chỉ internet, để những người muốn tìm hiểu có thêm nguồn tài liệu:

A. Thư tịch tổng quát Internet

– Johannes Stoehr, Josefsbibliographie: http://www.teol.de/BIB-JOS.htm

B. Những tạp chí nghiên cứu về Thánh Giuse

– Estudios Josefinos, Valladolid, Tây Ban Nha. Xuất bản từ năm 1947, do sáng kiến của cha J.A. Carrasco OCD. Indices 1977-2000 in n.108, vol. 54 (2000).

– Cahiers de Joséphologie, Montréal, Canada, từ năm 1953.

C. Những hội nghị và hội thảo quốc tế về Thánh Giuse

1/. Những hội nghị

– AA. VV., Die Bedeutung des hl. Josef in der Heilsgeschichte.Akten des IX. internationalen Symposions ber den hl. Josef, 2 Bde., Kevelaer 2006.

– AA. VV., San José en el siglo XIX. Actas del sexto Simposio Internacional, in: Estudios Josefinos 39 (1995); Cahiers de Joséphologie 53 (1995) .

– AA. VV., San José en el siglo XVIII. Actas del quinto Simposio Internacional, in: Estudios Josefinos 45 (1991); Cahiers de Joséphologie (1991) 39.

– AA. VV., Presencia de San José en el siglo XVII. Actas del quarto Simposio Internacional (Kalisz, 22-29 septiembre 1985), Valladolid 1987; Estudios Josefinos 51 (1987) n. 81-82; Cahiers de Joséphologie (1987) vol. 35.

– AA. VV., San Giuseppe nel Seicento. Atti del terzo Simposio Internazionale su San Giuseppe, Libreria Editrice Murialdo, Roma 1981.

– AA. VV., San José en el Renacimiento. Actas del segundo Simposio Internacional, Toledo 1977, 882 pp.

– AA. VV., San Giuseppe nei primi quindici secoli della Chiesa. Atti del Primo Simposio Internazionale, Roma 1971, 838 pp. = Estudios Josefinos 25 (1971).

2/. Những hội thảo

– AA. VV., La Sagrada Familia en el siglo XVIII. Actas del Tercer Congreso Internacional sobre la Sagrada Familia (Barcelona, 6-10. 9. 1996), Barcelona 1997.

– AA. VV., Actas del Segundo Congreso sobre la Sagrada Familia, Barcelona-Roma 1995.

– AA. VV., Actas del Primer Congreso sobre la Sagrada Familia, Barcelona-Roma 1993.

– AA. VV., La Sagrada Familia en los primeros XVI siglos de la iglesia, Actas del Congreso, Barcelona 1992.

D. Những trung tâm phổ biến những nghiên cứu về Thánh Giuse: tài liệu thần học, bài giảng, kinh nguyện, hình ảnh.

1/. Tiếng Pháp:

Site international de chercheurs josephains pluridisciplinaires:http://www.josephologie.info/

Oratoire Saint Joseph du Mont-Royal: http://www.saint‑joseph.org/

Famille Saint Joseph: http://www.saint‑joseph.fr/

2/. Tiếng Anh:

Oblates of Saint Joseph in California: http://www.osjoseph.org (St Joseph in Scripture, Liturgy, Apocrypha, Magisterium, Church Fathers, Art)

3/. Tiếng Italia:

Centro Studi San Giuseppe (Giuseppini del Murialdo): http://www.murialdo.org/sangiuseppe/centro.htm

Movimento Giuseppino: http://www.osjcuria.org/movgiuseppino/

4/. Tiếng Tây Ban Nha:

Centro Josefino Espanol (OCD, Valladolid): http://www.centrojosefino.org

Movimiento de Vida Cristiana, Medellín (Colombia): http://www.redemptoriscustos.org

Centro Josefino de Centro America (Salvador): http://www.centroiph.org/

5/. Tiếng Việt:

Thánh Giuse quan thầy Giáo Hội Việt Nam (Lm Nguyễn Phúc Kim): http://hivong.org/giusequanthayvn.php

***

TÀI LIỆU THAM KHẢO

– AA.VV. Custodio del Redentor. Comentario a la exhortación apostolica “Redemptoris Custos”, in: Estudios Josefinos 44(1990) n. 87-88, pp. 3-266.

– Doublier-Villette Christian Michel, Joséphologie. Etat de la question, Mémoire de Maitrise d’Archéologie, Lyon 2004.

– Griffin Michael, St Joseph: a Theological Introduction, in: Cahiers de Joséphologie 1972, p. 219-251.

– Stramare Tarcisio, San Giuseppe nella storia della salvezza, LDC, Torino 1993.

– Stramare Tarcisio, Gesù lo chiamò Padre. Rassegna storico-dottrinale su san Giuseppe, LEV, Città del Vatican 1997.

– Stramare Tarcisio, Vangelo dei Misteri della Vita Nascosta di Gesù, Sardini, Bornato in Franciacorta 1998.

– Stramare Tarcisio, San Giuseppe. Il custode del redentore nella vita di Cristo e della Chiesa, Temi di Predicazione n. 98, Napoli 2006.

– Toschi Larry M., Joseph in the New Testament, Guardian of the Redeemer Book, Santa Cruz 1991.

– Toschi Larry M., St Joseph in Liturgy. Liturgical and paraliturgical recognition of Saint Joseph, in: http://www.osjoseph.org/stjoseph/liturgy/index.php

Lm. Giuse Phan Tấn Thành O.P
catechesis.net

——————————

[1] Thí dụ: A. Michel, art. Saint Joseph in: Dictionnaire de Théologie Catholique VIII, col.1510-1520.
[2] Larry M. Toschi, Joseph in the New Testament, Guardian of the Redeemer Book, Santa Cruz 1991. Tarcisio Stramare, Vangelo dei Misteri della Vita Nascosta di Gesù, Sardini, Bornato in Franciacorta, 1999.
[3] Trong Tân Ước, còn có ba nhân vặt mang tên Giuse: Giuse Arimatea, một người môn đệ đã hiến ngôi mộ để chôn Thầy (Mt 27,57-60); Giuse Barsabba, một người được đề cử cùng với Matthia giữ chức vụ tông đồ thế chỗ Judas (Cv 1,23); Giuse Barnabea (Cv 4,56). Ngoài ra, trong hàng thân thích của Chúa Giêsu, có một người tên là Giuse (Mt 13,55), và gia phả của Luca liệt kê hai người trong hàng tổ tiên (Lc 3,25.30).
[4] Xc. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 517; 1115.
[5] Nên lưu ý lời của thiên sứ nói với ông Giuse: “những kẻ tìm giết Hài nhi đã chết rồi” (Mt 2,20). Chủ từ ở số nhiều.
[6] Trái lại, Cựu Ước nhiều lần đề cập đến giấc mơ như là phương thế Thiên Chúa mặc khải, chẳng hạn trong trường hợp của ông Abraham (St 15,12-13), Jacob (St 28,12-13; 31,10-18; 46,2-4), Giuse (St 37,5-11), Samuel (1 Sm 3,1-14), Nathan (2 Sm 7,4-17), Salomon (1V 3,5), Đaniel (Đn 2,18-23).
[7] Trong Cựu Ước, thuật ngữ “Sứ thần Chúa” (sứ giả của Thiên Chúa, hoặc sứ giả của Giavê) đôi khi ám chỉ chính Thiên Chúa (xc. St 22,15-16). Vai trò chính yếu là thông báo một sứ điệp của Thiên Chúa.
[8] Ngoài ra, việc xen vào tên của 5 phụ nữ vào bản gia phả (Tamar, Racab, Rut, Betsabea, Maria) cũng là đề tài cho nhiều cuộc tranh cãi.
[9] Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng số 14 là nhân đôi con số 7, ám chỉ tuần lễ. Từ ông Abraham đến Đức Giêsu có 6 tuần (3 x 14), chuẩn bị cho cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu khai trương tuần lễ thứ bảy (Ảnh hưởng của sách Henoch, 91,15-17; 93,3-5).
[10] Xc. Bộ Giáo Luật 1983, điều 1062.
[11] I. de La Potterie, Maria nel mistero dell?alleanza, Marietti Torino, pp. 65-92.
[12] Thánh Irénee đã giải thích ý nghĩa biểu trưng của ba lễ phẩm: “mộc dược” tiên báo Đức Giêsu sẽ chết để cứu chuộc loài người; “vàng” tiên báo Hài nhi sẽ là vua của muôn dân; “nhũ hương” dâng tiến Chúa tể trời đất (xc. Adv. Haereses III,9,2). Từ thế kỷ XI, ba nhà chiêm tinh (hay đạo sĩ) được gọi là “ba vua” có lẽ vì được móc nối với Thánh Vịnh 72,10 (“Từ Thác-si và hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống. Cả những vua Arap, Saba đều tới tiến dâng lễ vật”). Họ cũng được mang tên là Balthazar, Melchior, Gaspar, đại diện cho các chủng tộc Âu (da trắng), Á (da vàng), Phi (da đen).
[13] Có người cho là sao chổi (Halley), sao mới (nova), chòm sao; có người giải thích là một điềm sao (mà các nhà chiêm tinh nhận ra). Có người cho rằng, “sao” ám chỉ nhà David, dòng dõi Judas (xc. Ds 24,17). Có người cho rằng sao ám chỉ ánh sáng đức tin.
[14] Nên biết là 5 mầu nhiệm mùa Vui của kinh Mân Côi đều dựa theo Tin Mừng Luca: truyền tin (1,26-38), thăm viếng (1,39-56), giáng sinh (2,1-20), dâng con trong đền thờ (2,22-39), lạc mất con trong đền thờ (2,41-51).
[15] Có người nhận xét rằng, thay vì trưng dẫn các đoạn văn Cựu Ước như Matthew, Thánh Luca nêu bật tác động của Chúa Thánh Thần: Lc 1,15.35.41.67; 2,25-27.
[16] Có nhiều điểm tương đồng giữa cuộc đời của Samuel với câu chuyện của Thánh Gioan Tiền Hô và Chúa Giêsu. Bà Anna và bà Elizabeth đều là người son sẻ. Ông Êli và ông Zacaria là những tư tế năng lui tới đền thờ. Mặt khác bài ca Magnificat của Đức Maria có nhiều nét giống như bài ca tạ ơn của bà Anna (1Sm 2,1-10). Một cách tương tự như vậy, cậu Giêsu cũng năng lui tới đền thờ giống cậu Samuel (1Sm 1,21-2,11), và cũng trưởng thành về nhân bản và đạo đức như nhau (1Sm 2,21.26).
[17] Eusebio Cesarea , Historia Ecclesiastica lib.I, cap.VII.
[18] Theo Luca, thiên sứ đến truyền tin cho Đức Maria trước khi bà thụ thai. Theo Matthew, thiên sứ hiện ra với ông Giuse sau khi Đức Maria đã có thai.
[19] Có Giáo phụ (như Origène) không chỉ giải thích việc cắt bì như là dấu hiệu được kết nạp vào dân giao ước (xc. St 17,12; Lv 12,3), nhưng còn như tiên báo việc hiến tế trong tương lai (đổ máu xá tội: Xh 4,24-26).
[20] xc. 7,43-44: “Đức Kitô mà lại xuất thân từ Galilee sao? Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua David và từ Bethlehem, làng của vua David sao?”.
[21] Thánh Phaolô đã nói cách tổng quát: “Tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã chỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh” (1 Cr 15,3-4).
[22] Ông được nhắc đến gần 200 lần trong Cựu Ước và 8 lần trong Tân Ước.
[23] Trong nguyên gốc Hippri, “Yôsep” viết tắt của “Yehôsep” ghép bởi hai từ “Yhw” (Yahweh)“ysp”: nguyện xin Thiên Chúa tăng thêm (xc. St 30,23-24; 49,22-26).
[24] Xc. Đức Giáo Hoàng Leo XIII, Thông điệp Quamquam Pluries, 15/8/1889, in: Leonis XIII Pontificis Maximi Acta, vol. IX, Romae 1890, p. 179-180.
[25] Homilia II Super missus est, PL 183, 69-70.

[26] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, số 21.

[27] Xc. Ibid., số 8.

[28] Thực ra, trong tiếng Latin, người ta dùng nhiều từ ngữ: Sponsus, Coniux, Vir.

[29] Trong lịch sử Giáo Hội, chúng ta gặp thấy nhiều lập trường đối nghịch: 1/ Một bên phủ nhận sự trinh khiết của Đức Maria (ông Giuse và bà Maria là hai vợ chồng giống như bao đôi vợ chồng khác). Chủ trương này đã xuất hiện từ những thế kỷ đầu tiên, thí dụ các ông Cerinthius, Carpocrates, nhóm Ebionist, ông Helvidius; họ phủ nhận Đức Maria đồng trinh. 2/ Ngược lại, một lập trường cho rằng giá thú của ông Giuse và bà Maria chỉ có hình thức bên ngoài để che mắt thiên hạ: hai người không có ý định nên vợ nên chồng (bởi vì Đức Maria đã khấn giữ trinh khiết trọn đời). Đây là chủ trương của ông Giulianô mà Thánh Augustino đã phải đương đầu (Contra Iulianum), và của vài nhà thần học thời Trung cổ như Gratianus và Miguel de Medina.

[30] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, số 2-3.7

[31] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Những bài huấn giáo về Đức Maria, Tp. HCM 1999. Bài 26: “Chân lý đức tin về sự trinh khiết của Đức Maria”.

[32] St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, III pars, q. 29.

[33] Thánh Augustino sử dụng một diễn ngữ xem ra mâu thuẫn khi diễn tả hôn nhân của Thánh Giuse, đó là “hôn nhân trinh khiết” (virginale connubium) chứ không chỉ nguyên “khiết tịnh” (castum); xc. Contra Iulianum, lib.3, n.2: PL 42,214.

[34] De nuptiis et concupiscentia, 1,11,13: được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhắc lại trong Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, số trích dẫn ở nota 14.

[35] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, số 7.

[36] Ibid., số 4.

[37] Ibid., số 3.

[38] Ibid., số 4; Thông điệp Redemptoris mater.

[39] Ibid., số 7.

[40] Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI, Thông điệp Deus caritas est (Thiên Chúa Là Tình Yêu), Ngày 25-12-2005, số 3-8.

[41] Tuy ngôn ngữ thông thường chỉ dành từ ngữ “đồng trinh” (hay “trinh khiết”) cho nữ giới, nhưng các Giáo phụ và nhà thần học áp dụng cho cả nam giới nữa. Nên biết là đức “khiết trinh” (virginitas) không chỉ giới hạn vào phạm vi thể lý mà thôi. Xc. Florent Raymond Bilodeau, The Virginity of Saint Joseph in the Latin Fathers and Medieval Ecclesiastical Writers, St. Mary’s University – Baltimore, Maryland – 1957.

[42] Nên biết là cha Jean Gerson đã nêu vấn nạn như thế này: nếu Thánh Giuse già lão như vậy thì làm sao đủ sức mà giúp đỡ thánh gia trong bao nhiêu việc nặng nề, chẳng hạn trong suốt cuộc hành trình sang Ai Cập?

[43] Xc. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 499.

[44] Nhiều Giáo phụ bên Đông nghiêng theo lưu truyền về Thánh Giuse goá vợ trước khi đính hôn với Đức Maria. Bên Tây Phương, thánh Hieronimo bác bỏ ý kiến đó, và chủ trương Thánh Giuse trinh khiết.

[45] St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, III, q. 28, a. 4.

[46] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, số 7: “Opus namque salutis Servator ex virginali hac et sacra coniunctione incohavit, ubi omnipotens ipsius ostenditur voluntas purificandae ac sanctifcandae familiae, quae et amoris sacrarium est et vitae ipsius seminarium”; số 20: “Est enim coniugium societas necessitudoque omnium maxima, quae natura sua adiunctam habet bonorum unius cum altero communicationem. Quocirca si sponsum Virgini Deus Iosephum dedit, dedit profecto non modo vitae socium, virginitatis testem, tutorem honestatis, sed etiam excelsae dignitatis eius ipso coniugali foedere participem”.; Trưng dẫn Thông điệp Quamquam Pluries.

[47] Có tác giả dựa trên lời của Đức Maria thưa với sứ thần (Lc 1,34) như nền tảng của lời khấn trinh khiết (“Điều ấy xảy đến thế nào được, bởi vì tôi không biết đến người đàn ông?”).

[48] xc. St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, II-II, q. 152, a. 4.

[49] Bài thứ 30, ngày 21/08/1996.

[50] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, số 7.

[51] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã quảng diễn đề tài này trong Tông thư Mulieris dignitatem (Phẩm giá phụ nữ), ban hành ngày 15/8/1988, nghĩa là một năm trước Tông huấn Redemptoris Custos.

[52] St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, III, q. 27, a. 4, c.

[53] St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, III, q. 27, a. 5, c.

[54] Đức Giáo Hoàng Piô IX, Sắc lệnh Quemadmodum Deus, Ngày 8-12-1870.

[55] Được Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, trưng dẫn một đoạn ở số 28.

[56] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, số 4, trưng dẫn Hiến chế về Mặc khải của Công Đồng Vatican II

[57] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, số 17.

[58]Ibid., số 4; 6; 21.

[59] Ibid., số 8; 19.

[60] Ibid., số 24.

[61]Ibid., số 25.

[62] Xc. Ibid., số 30.

[63] Ibid., số 31.

[64] Xc. Ibid., số 29.

[65] Ibid., số 21-22.

[66]Ibid., số 5; 26.

[67] Ibid., số 23.

[68]Ibid., số 25.

[69] Larry Toschi, St Joseph in Liturgy. Liturgical and paraliturgical recognition of Saint Joseph, in: http://www.osjoseph.org/stjoseph/liturgy/index.php

[70] Trong lịch phụng vụ hiện hành (sau Vatican II) các lễ được chia làm 3 cấp: lễ Trọng, lễ Kính, lễ Nhớ. Trước đây, các lễ được chia làm nhiều cấp, tùy nơi tùy thời. Nói chung, các bậc từ dưới lên trên như sau: “simplex”, “semiduplex”, “duplex minor”, “duplex maior”, “totum duplex”,.v.v…

[71] Tại Âu châu, vài nhà thờ tự hào là lưu giữ các di tích của Thánh Giuse. Perugia (Italia), Auxois (Pháp) giữ chiếc nhẫn cưới của Thánh Giuse. Nhà thờ Notre-Dame de Joinville-sur-Marne (Langres, Pháp) giữ thắt lưng của Thánh Giuse. Đan viện Camaldoli (Italia) giữ chiếc gậy của Thánh Giuse.

[72] “Confessores”. Theo lịch sử, vào những thế kỷ đầu tiên, phụng vụ kính các thánh “tử đạo” (martyres); sau đó thêm “confessores” nghĩa là các tín hữu đã tuyên xưng đức tin và bị giam cầm, nhưng không bị sát hại. Sau thời kỳ bắt đạo, hạn từ “confessores” áp dụng cho các thánh không tử đạo: giám mục, tu sĩ, giáo dân.

[73] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos, chương VI

Exit mobile version