Số là hai mẹ con một người phụ nữ trẻ nọ đang đi dạo trên bờ một con kênh. Khi đứa trẻ chạy chơi dọc theo bờ con kênh như thế, chẳng may em vô ý bị rơi xuống con kênh. Thấy vậy người mẹ trở nên hoảng loạn và kêu gào thảm thiết khi nhìn thấy cậu con trai bà đang sắp bị chết đuối mà không biết phải gì để cứu con, vì chính bà cũng không biết bơi. Nhưng may thay, giữa lúc nguy kịch ấy, có một người đàn ông bỗng chốc đi qua đó. Nhìn thấy rõ được hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm cho tính mạng đứa bé, ông ta đã lập tức nhảy xuống con kênh và cứu được đứa bé và trao cho mẹ nó. Bà mẹ quá sung sướng ôm chặt đứa con vào long. Để tỏ lòng biết ơn sâu sa đối với vị ân nhân đã cứu sống con mình, bà đã thiết tha mời người đàn ông ghé thăm gia đình bà cũng ở gần đó, hầu để sưởi ấm và thay đổi quần áo.
Trong khi tạm biệt vị ân nhân của mình, bà mẹ đứa bé đã nói với người đàn ông: “Thưa ông, tôi thật vô cùng lấy làm tiếc là gia đình tôi chẳng có gì đáng giá để đền đáp công ơn to lớn của ông cho cân xứng, bởi vì nhà tôi nghèo. Nhưng của ít lòng nhiều, để tỏ chút lòng cám ơn ông đã cứu sống con tôi, tôi xin biếu ông pho tượng Đức Mẹ bé nhỏ này”.
Bấy giờ người đàn ông nghĩa hiệp đã cứu vớt đứa bé nói với mẹ đứa bé: “Mặc dầu tôi là một người vô tín ngưỡng. Tôi chẳng tin vào Chúa Mẹ gì cả, nhưng tôi xin nhận pho tượng Đức Mẹ bà biếu để làm kỷ niệm sự cố vừa xảy ra”.
Mấy thập niên sau đó, một sự kiện lạ lùng sau đây đã xảy ra tại một bệnh viện ở Thụy Sỹ: Các cô y tá bệnh viện tìm gặp một vị Linh mục và thưa với ngài: “Tại bệnh viện chúng tôi có một bệnh nhân rất yếu, khó lòng qua khỏi. Rất có thể ông ta chỉ sống được vài ba ngày nữa thôi. Mặc dù ông ta không muốn nhắc tới Thiên Chúa hay tôn giáo gì cả, và cũng không muốn gặp bất cứ vị Linh mục nào cả, nhưng cha là người đồng hương Flamand với ông ta. Hy vọng ông ta sẽ phấn khởi chăng khi trao đổi với cha bằng tiếng mẹ đẻ của ông ta”.
Nghe vậy, vị Linh mục liền tới phòng người bệnh nhân kia, ngài chào ông ta và hỏi thăm ông bằng tiếng Flamand. Bỗng nhiên ở xứ người xa lạ mà lại nghe có người nói tiếng mẹ đẻ của mình, người bệnh tỏ vẻ rất vui mừng và trở nên thân thiện cởi mở hơn. Trong khi nói chuyện, vị Linh mục nhìn thấy một pho tượng Đức Mẹ nhỏ nhắn đặt ở cái bàn nhỏ ở giường người bệnh nhân. Ngài chân thành nói với người bệnh; “Tôi thực sự rất ngạc nhiên khi nghe các cô ý tá cho hay là ông vô tín ngưỡng, thế mà nay tôi lại nhìn thấy ở cái bàn nhỏ của ông có pho tượng Đức Mẹ xinh xắn này.” Nghe vậy người bệnh liền kể cho vị Linh mục: “Cha biết không, sự việc đã xảy ra ở vùng Plandern tại Bỉ đã khá lâu rồi: số là tôi đã may mắn cứu sống được một đứa bé khi nó bị rơi xuống một con kênh ở quê tôi. Để tỏ lòng cám ơn tôi, bà mẹ đứa bé đã tặng tôi pho tượng Đức Mẹ này để làm kỷ niệm và tôi luôn mang theo pho tượng bên mình mỗi khi phải xa nhà.”
Bấy giờ vị Linh mục liền trả lời: “Vâng, tôi biết rất rõ sự cố ấy. Nó đã xảy ra vào năm này … và tại địa điểm này …” Nghe vị Linh Mục nói thế, người bệnh vô cùng lấy làm ngạc nhiên và hỏi. “Từ đâu cha biết rõ được câu chuyện này vậy?” Đầy cảm động và nhân từ, vị Linh mục nhìn thẳng vào người bệnh nhân và nói: “Đức trẻ chết đuối năm xưa đã được ông cứu sống chính là tôi đây. Mẹ tôi đã kể lại hết cho tôi biết rồi.”
Bấy giờ một phép lạ của ơn sủng Chúa đã xảy ra: Người bệnh nhân vô tín ngưỡng kia đã ôm mặt khóc nức nở và đã ăn năn hoán cải, trở về làm hòa với Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải. Ông đã sốt sắng lần lượt chịu các phép Bí tích. Mấy ngày sau đó ông đã yêm ái trút hơi thở cuối cùng, ông đã thanh thản ra đi trở về với Chúa như một tín hữu ngoan đạo.