Tính đa cảm của con đã làm con dở hơi quá; hồi ấy lý lẽ gì đối với con cũng vô ích hết, con đã biết là xấu mà không thể chừa. Như vậy, còn muốn vào Dòng Kín sao được? Phải có phép lạ mới có thể giúp con trong một thời hạn vắn, trở nên người biết điều. Phép lạ mong ước ấy, Đức Chúa Trời đã làm trong ngày không thể quên kia – 25-12-1866. Trong Đêm Sinh Nhật – một Đêm hồng phúc – Chúa Hài Đồng GIÊSU, chỉ trong một giờ, đã đổi hẳn đêm tăm tối u mù của linh hồn con thành những vầng sáng rực rỡ chói lói. Tình yêu vô lượng đã khiến Chúa sinh làm con trẻ ngây thơ yếu ớt, để con là chính kẻ yếu đuối dại dột trở nên mạnh dạn can đảm. Người trao khí giới Người cho con dùng. Với những chiến khí, con bước tới đâu thắng tới đấy, thắng luôn luôn; có thể nói: con có bước đi của tướng đại lộ, thành công nhanh như chớp. Suối lệ từ đó cũng khô, rất khó khóc, rất họa hoằn mới lại khóc .. Chính trong Đêm sáng sủa này đã mở đầu giai đoạn thứ ba trong đời con – một giai đoạn đẹp đẽ nhất, hồng ân nhất.
Ơn Thánh Đêm Giáng Sinh của vị thứ hai là thánh nữ Marie-Eugénie Chúa GIÊSU (1817-1898).
Nữ tu Marie-Eugénie Chúa GIÊSU – tục danh Anne-Eugénie Milleret de Brou – chào đời tại Metz và qua đời tại thủ đô Paris. Chị sáng lập dòng Các Nữ Tu Đức Mẹ Lên Trời (Assomption) và được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tôn phong hiển thánh ngày 3-6-2007.
Anne-Eugénie sinh ra trong một gia đình thượng lưu khá giả nhưng không sống đạo, tuy vẫn được giáo dục trong đạo thánh Công Giáo. Cô thiếu nữ trải qua thời thơ ấu giữa khách sạn của Song Thân ở Metz và lâu đài Preisch nằm gần biên giới Luxembourg.
Giáng Sinh năm 1829, Anne-Eugénie 12 tuổi, chuẩn bị rước lễ lần đầu. Một biến cố trọng đại trong cuộc đời một tín hữu Công Giáo, nhưng cô bé chưa sẵn sàng đón rước Đức Chúa GIÊSU ngự vào lòng, bởi lẽ cô không được chuẩn bị thật chu đáo. Song Thân cô là những người liêm chính và quảng đại nhưng không đặt trọn niềm tin nơi Đức Chúa GIÊSU KITÔ.
Nhưng khoảng trống trong tâm hồn cô bé được chính Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể làm tràn đầy khi Người ngự vào lòng lúc cô bé rước lễ lần đầu dịp Lễ Giáng Sinh năm 1829. Sau này, Anne-Eugénie viết: ”Vào chính lúc rước Đức Chúa GIÊSU KITÔ, con cảm nghiệm được sự cao cả vô biên của THIÊN CHÚA và cái bé nhỏ thấp hèn của loài người”. Rồi con như nghe một tiếng phán với con rằng: ”Sẽ đến một ngày con sẽ từ bỏ tất cả những gì con yêu thích để làm vinh danh Thầy và để phục vụ Giáo Hội mà con chưa biết”.
Cuộc gặp gỡ thần bí với Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể, mật thiết và nhanh chóng, đã biến đổi trọn vẹn con người của Anne-Eugénie. Ngay năm sau – 1830 – cô thiếu nữ chứng kiến cảnh Cha Mẹ ly thân rồi cái chết non trẻ của hiền mẫu vào năm 1832.
15 tuổi đời, Anne-Eugénie sống cô đơn nơi thủ đô Paris với một gia đình giàu sang do thân phụ cô gởi gấm. Bao câu hỏi dày vò tâm trí: ”Tại sao có đau khổ? Sự sống và cái chết có ý nghĩa gì? Sự Thật ở đâu?” Chỉ nhờ duy nhất Ơn Thánh Giáng Sinh nhận lãnh vào ngày rước lễ lần đầu mà cô luôn tâm niệm trong lòng đã gìn giữ cô thiếu nữ không rơi vào hố thẳm tuyệt vọng.
Nhưng ánh sáng chỉ đến vào tháng 4 năm 1836 khi Anne-Eugénie nghe Cha Jean-Baptiste-Henri-Dominique Lacordaire (1802-1861) giảng thuyết mùa chay tại Nhà Thờ Đức Bà Paris. Sau này cô viết cho vị Linh Mục dòng Đa Minh: ”Lời Cha giải thích cho mọi nghi vấn của tư tưởng con và ban cho con một Đức Tin kiên vững mà không còn gì có thể làm con nao núng. Con đã thật sự hồi tâm hoán cải”.
Được củng cố trong Đức Tin, được giải tỏa mọi khúc mắt chính yếu, giờ đây Anne-Eugénie có thể đáp lại Ơn Thánh Giáng Sinh mà cô nhận được vào ngày 25-12-1829.
Ngày 30-4-1839, với 22 tuổi đời, nơi một căn hộ nhỏ ở đường Férou, chỉ cách Saint-Sulpice vài bước, Anne-Eugénie Milleret de Brou thành lập hội dòng các Nữ Tu Đức Mẹ Lên Trời và lấy tên dòng là Marie-Eugénie. Dòng có mục đích đào tạo lòng trí các thanh thiếu nữ để giúp họ trở thành những linh hồn vững mạnh.
Trong một thế giới tục hóa, thánh nữ Marie-Eugénie muốn bảo vệ một nền giáo dục giúp con người sống dưới ánh sáng của Đức Tin. Thánh nữ đã dâng hiến trọn cuộc đời cho công trình giáo dục cho đến khi nhắm mắt lìa đời, hưởng thọ 81 tuổi.
… Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: ”Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng KITÔ THIÊN CHÚA. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”. Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen THIÊN CHÚA rằng: Vinh danh THIÊN CHÚA trên Trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: ”Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết”. Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp Bà MARIA, Ông GIUSE, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn Bà MARIA thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng THIÊN CHÚA, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ(Luca 2,8-20).
(”PARIS NOTRE-DAME, L’Église en mission à Paris”, Journal du Diocèse de Paris, Hebdomadaire, No 1454, 29 Novembre 2012, trang 6 + ”Một Tâm Hồn”, Kim Thiếu dịch, in lần thứ ba, Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ USA, trang 99-100)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt