[The article in English] Mk 10:17-31. Leave everything to receive a hundredfold
Nội dung
I. Bản văn Mc 10,17-31
1. Đoạn văn trước: 10,13-16.
2. Đoạn văn phân tích: 10,17-31.
3. Đoạn văn tiếp theo: 10,32-34.
II. Bối cảnh và cấu trúc Mc 10,17-31
1. Bối cảnh
2. Cấu trúc
III. Phân tích
1. “Của cải” và “làm môn đệ Đức Giê-su” (10,17-22)
2. Vào Vương Quốc của Thiên Chúa (10,23-27)
3. Phần thưởng dành cho môn đệ (10,28-30)
4. Nguyên tắc: “Đứng đầu – đứng chót” (10,31)
IV. Kết luận
Thư mục
I. Bản văn Mc 10,17-31
Chúng tôi sẽ phân tích đoạn văn Mc 10,17-31, tuy nhiên đoạn văn này liên kết với đoạn văn trước (10,13-16) và đoạn văn sau nó (10,32-34). Vì thế, phần sau sẽ trình bày cả ba đoạn văn: Đoạn văn liền trước: 10,13-16; đoạn văn phân tích: 10,17-31; và đoạn văn tiếp theo: 10,32-34. Đọc cả ba đoạn văn này giúp độc giả đặt đoạn văn phân tích vào bối cảnh văn chương của nó, nhờ đó hiểu được thông điệp của đoạn văn 10,17-31. Bản văn Tin Mừng Mác-cô lấy trong, Tin Mừng Mác-cô, Hy Lạp – Việt. Xem quy định cách trình bày bản dịch trong phần trích đoạn sách.
1. Đoạn văn trước: 10,13-16.
Vương Quốc Thiên Chúa và trẻ em
13 Và họ dẫn đến với Người [Đức Giê-su] các trẻ em để Người chạm vào chúng, nhưng các môn đệ la rầy chúng. 14 Thấy vậy, Đức Giê-su bực mình và nói với các ông: “Hãy để các trẻ em đến với Thầy, hãy đừng ngăn cấm chúng, vì Vương Quốc của Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. 15 A-men, Thầy nói cho anh em: Người nào không đón nhận Vương Quốc Thiên Chúa như một trẻ em thì chắc chắn người ấykhông được vào đó.” 16 Và Người ôm lấy chúng, Người đặt tay ban phúc lành cho chúng.
2. Đoạn văn phân tích: 10,17-31, gồm 3 tiểu đoạn
a) 10,17-22: Làm gì để có sự sống đời đời?
17 Người vừa lên đường, một người chạy đến quỳ xuống trước Người và hỏi Người: “Thưa Thầy tốt lành, tôi phải làm gì để có sự sống đời đời làm gia nghiệp?” 18 Đức Giê-su nói với người ấy: “Sao anh nói Tôi là tốt lành? Không có ai tốt lành, trừ một mình Thiên Chúa. 19 Anh biết các điều răn: Ngươi không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không làm hại ai, ngươi hãy thảo kính cha mẹ của ngươi.” 20 Anh ta xác nhận với Người: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã giữ từ thời niên thiếu.” 21 Đức Giê-su nhìn anh ta, Người yêu mến anh ta và nói với anh: “Anh còn thiếu một điều: Anh hãy ra đi, hãy bán những gì anh có và cho người nghèo, anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Tôi.” 22 Nhưng anh ta sầm mặt lại vì lời ấy và anh ta buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
b) 10,23-27: Khó vào Vương Quốc Thiên Chúa
23 Rảo mắt nhìn chung quanh, Đức Giê-su nói với các môn đệ của Người: “Thật khó biết bao cho những người có của đi vào Vương Quốc Thiên Chúa.” 24 Các môn đệ sững sờ về những lời của Người. Đức Giê-su lại lên tiếng nói với các ông: “Các con ơi, thật là khó biết bao để đi vào Vương Quốc Thiên Chúa. 25 Con lạc đà chui qua lỗ kim thì dễ hơn người giàu đi vào Vương Quốc Thiên Chúa.” 26 Các ông hết sức kinh ngạc nói với nhau: “Vậy thì ai có thể được cứu?” 27 Nhìn thẳng vào các ông, Đức Giê-su nói: “Đối với loài người thì không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa.”
c) 10,28-31: Bỏ mọi sự sẽ được gấp trăm
28 Phê-rô lên tiếng nói với Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà đi theo Thầy.” 29 Đức Giê-su xác nhận: “A-men, Thầy nói cho anh em: Không ai bỏ nhà cửa, hay anh em, chị em, mẹ, cha, con cái, ruộng đất, vì Thầy và vì tin mừng, 30 mà không nhận được gấp trăm, bây giờ, trong thời gian này, nhà cửa và anh em, chị em, mẹ, con cái, ruộng đất, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời trong thời đang đến. 31 Nhưng nhiều kẻ đứng đầu sẽ đứng chót và những kẻ đứng chót sẽ đứng đầu.”
3. Đoạn văn tiếp theo: 10,32-34. Báo Thương Khó lần III
32 Họ đang trên đường đi lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su dẫn đầu họ. Họ kinh hoàng, còn những kẻ theo sau thì sợ hãi. Người lại đem theo mình Nhóm Mười Hai, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho Người: 33 “Này chúng ta đi lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và các kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. 34 Họ sẽ nhạo báng Người và sẽ khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn Người và sẽ giết chết Người, và sau ba ngày, Người sẽ sống lại.”
II. Bối cảnh và cấu trúc Mc 10,17-31
1. Bối cảnh
Đoạn văn Mc 10,17-31 thuộc phần giảng dạy của Đức Giê-su về Vương Quốc của Thiên Chúa. Đoạn văn trước đoạn văn này (10,13-16), thuật lại giáo huấn của Đức Giê-su liên quan đến “trẻ em” và cách thức “vào Vương Quốc Thiên Chúa”. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 10,14b-15: “Hãy để các trẻ em đến với Thầy, hãy đừng ngăn cấm chúng, vì Vương Quốc của Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. 15 A-men, Thầy nói cho anh em: Người nào không đón nhận Vương Quốc Thiên Chúa như một trẻ em thì chắc chắn người ấykhông được vào đó.” Giáo huấn này nối kết với đề tài trong đoạn văn 10,17-31: “Có sự sống đời đời làm gia nghiệp” (10,17) và “đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,23.24.25.27).
Đoạn văn 10,17-31 nối tiếp bởi đoạn văn 10,32-34. Trong đoạn văn này, Đức Giê-su và các môn đệ lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Trên đường đi, Đức Giê-su báo trước lần thứ III cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người. Người nói với các môn đệ: “Này chúng ta đi lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và các kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. 34 Họ sẽ nhạo báng Người và sẽ khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn Người và sẽ giết chết Người, và sau ba ngày, Người sẽ sống lại” (10,33-34). Lời báo trước này nối kết với đoạn văn trước nó qua ba đề tài: (1) Lời mời gọi từ bỏ mọi sự để theo Đức Giê-su, (2) Sự bách hại được nói đến ở 10,30, (3) Nguyên tắc đảo ngược: “kẻ đứng đầu sẽ đứng chót và những kẻ đứng chót sẽ đứng đầu” ở 10,31. Nguyên tắc này có thể áp dụng cho biến cố Thương Khó và Phục Sinh của Đức Giê-su. Tóm lại, đoạn văn 10,17-31 liên kết chặt chẽ với đoạn văn trước (10,13-16) và đoạn sau (10,32-34).
2. Cấu trúc
Đoạn văn Mc 10,17-31 có thể cấu trúc thành ba tiểu đoạn và một nguyên tắc đảo ngược.
Tiểu đoạn thứ nhất (10,17-22) thuật lại câu chuyện về một người muốn có sự sống đời đời làm gia nghiệp. Khởi đầu xem ra đây là một người tốt lành và đạo đức, bởi vì anh đã tuân giữ các điều răn (10,19) từ thời niên thiếu (10,20). Tuy nhiên, khi Đức Giê-su đề nghị với anh ta: “Anh hãy ra đi, hãy bán những gì anh có và cho người nghèo, anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Tôi”, anh ta đã từ chối và “buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (10,22). Như thế, của cải có thể trở thành chướng ngại lớn cho quyết định làm môn đệ Đức Giê-su. Đề tài “của cải” và “làm môn đệ” sẽ được phân tích trong mục thứ nhất dưới đây.
Tiểu đoạn thứ hai (10,23-27) là phần Đức Giê-su nói với các môn đệ sau khi người có nhiều của cải đã đi khỏi. Ý tưởng “thật là khó biết bao để đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” được Đức Giê-su nói đến 2 lần (10,23.24). Sự khó khăn này không chỉ đối với “người có của” mà còn mở rộng đến mọi người. Hơn nữa, không chỉ là “khó” mà Đức Giê-su còn nhấn mạnh qua lời nói: “Con lạc đà chui qua lỗ kim thì dễ hơn người giàu đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,25). Như thế, trước là “khó vào”, sau là “không thể vào”, nhưng “mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa” (10,27). Tại sao “vào Vương Quốc Thiên Chúa” lại khó khăn như thế? Đề tài “có sự sống đời đời làm gia nghiệp” hay “vào Vương Quốc Thiên Chúa” sẽ được trình bày trong mục thứ hai.
Trong tiểu đoạn thứ ba (10,28-30), Đức Giê-su hứa phần thưởng cho những ai đã bỏ mọi sự mà đi theo Đức Giê-su (10,28). Phần thưởng dành cho các môn đệ vừa ở hiện tại: “trong thời gian này” (10,30a) vừa ở tương lai: “trong thời đang đến” (10,30b). Tại sao mạch văn đang nói đến phần thưởng gấp trăm lại nói đến “cùng với sự ngược đãi” (10,30)? Sự nghịch lý này sẽ được bàn tới trong mục thứ ba: “Phần thưởng dành cho các môn đệ”.
Câu cuối cùng của đoạn văn 10,17-31 là một nguyên tắc đảo ngược: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ đứng chót và những kẻ đứng chót sẽ đứng đầu” (10,31). Ai là người đứng đầu? Ai là người đứng chót? Câu nói trên của Đức Giê-su sẽ được phân tích trong mục thứ tư.
III. Phân tích
Chúng tôi sẽ phân tích đoạn văn 10,17-31 theo diễn tiến của trình thuật qua bốn mục: (1) Của cải và làm môn đệ Đức Giê-su (10,17-22); (2) Vào Vương Quốc Thiên Chúa (10,23-27); (3) Phần thưởng dành cho các môn đệ (10,28-30); (4) Nguyên tắc đảo ngược: “Kẻ đứng đầu sẽ đứng chót và những kẻ đứng chót sẽ đứng đầu” (10,31).
1. “Của cải” và “làm môn đệ Đức Giê-su” (10,17-22)
Trình thuật bắt đầu khi có một người chạy đến quỳ xuống và hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy tốt lành, tôi phải làm gì để có sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (10,17) Để trả lời câu hỏi này, Đức Giê-su nói đến hai ý tưởng. Trước hết, Đức Giê-su dành cho Thiên Chúa phẩm chất “tốt lành”. Người nói với anh ta: “Sao anh nói Tôi là tốt lành? Không có ai tốt lành, trừ một mình Thiên Chúa” (10,18b). Trong truyền thống Do Thái, phẩm chất “tốt lành” dành cho Thiên Chúa và cũng được áp dụng cho những thực tại khác (xem St 1,4.10.12.18; v.v…). Ở đây (Mc 10,18) lời nói của Đức Giê-su gợi đến điều răn nền tảng trong sách Đệ Nhị Luật: “4 Nghe đây, hỡi Ít-ra-en ! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. 5 Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em)” (Đnl 6,4-5, NPD/CGKPV). J. Marcus viết về liên hệ trong câu trả lời của Đức Giê-su với 10 điều răn như sau: “[Điều răn đứng đầu này (Đnl 6,4-5)] được người Do Thái và Ki-tô hữu thời sơ khai xem như tương đương với phần đầu của 10 điều răn [phiến đá thứ nhất của Thập Điều], trong đó nói về tương quan giữa con người và Thiên Chúa. Phần thứ hai của câu trả lời [10,19] trích dẫn từ phần thứ hai của 10 điều răn [phiến đá thứ hai của Thập Điều], trong đó nói đến tương quan giữa người với người” (J. MARCUS, Mark 8–16, 2009, tr. 725). Trong phần mở đầu cuộc đối thoại ở Mc 10,17-18, Đức Giê-su dành phẩm chất “tốt lành” cho một mình Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn của mọi sự tốt lành và là Đấng duy nhất có thể ban tặng “sự sống đời đời” (10,17). Qua lời xác nhận nguồn gốc của sự tốt lành, Đức Giê-su đã hướng người muốn “có sự sống đời đời làm gia nghiệp” về phía Thiên Chúa, bởi vì trước hết, “có sự sống đời đời” hay “vào Vương Quốc Thiên Chúa” là quà tặng của Thiên Chúa.
Việc tuân giữ các điều răn của anh ta được trình bày trong phần đầu trình thuật (10,19-20). Chỉ đến cuối câu chuyện, độc giả mới biết “anh ta có nhiều của cải” (10,22b). Mở đầu câu chuyện, anh ta được trình bày như là một người tốt và đạo đức, bởi vì anh ta đã tuân giữ rất tốt các điều răn về tương quan giữa người với người. Ngay từ thời niên thiếu (10,20), anh ta đã “không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không làm hại ai, thảo kính cha mẹ” (10,19). Trong danh sách các điều răn này, Đức Giê-su đã thay đổi thứ tự của điều răn thứ năm: “ngươi hãy thảo kính cha mẹ của ngươi” trong danh sách Mười Điều Răn ở Xh 20,12-16; Đnl 5,16-20. Vì thế, thứ tự các điều răn ở Mc 10,19 là 6, 7, 8, 9, 10, 5. Phần trình thuật tiếp theo cho thấy việc tuân giữ cẩn thận các điều răn trên đây chưa đủ để “có sự sống đời đời làm gia nghiệp” (10,17). Đức Giê-su nói với anh ta: “Anh còn thiếu một điều”. Điều còn thiếu này gợi ý rằng việc tuân giữ điều răn của người này chưa trọn vẹn. Thật trớ trêu khi người này dường như đã có tất cả (đạo đức và của cải), nhưng lại thiếu một điều quan trọng. Đó là điều gì?
Đức Giê-su đề nghị anh ta thực hiện điều còn thiếu: “Anh hãy ra đi, hãy bán những gì anh có và cho người nghèo, anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Tôi” (10,21b). Có hai hướng di chuyển trong lời đề nghị của Đức Giê-su: “HÃY ĐI” và “HÃY ĐẾN”. Lời mời gọi “hãy ra đi, hãy bán những gì anh có và cho người nghèo” làm cho anh ta không còn của cải gì nữa, nhưng anh ta sẽ “có một kho tàng trên trời” (10,21b). Nghĩa là anh ta lại trở nên giàu có, vì có cả “một kho tàng”, nhưng đây là kho tàng trên trời chứ không phải là kho tàng ở trần gian này. Sự thay đổi từ “kho tàng trần thế” thành “kho tàng trên trời” làm cho anh ta được tự do, không còn bị ràng buộc vào của cải trần thế nữa. Nhờ đó anh ta có thể đến và đi theo Đức Giê-su (10,21c).
Trong truyền thống Cựu Ước, giàu có và của cải vật chất được xem là ân huệ Thiên Chúa ban (xem G 1,10; Tv 128,1-2; Is 3,10). Một người đạo đức thường mong ước trở nên thịnh vượng, phát đạt, rồi từ đó chia sẻ và giúp đỡ những người khác, và họ trở thành ân nhân của những người nghèo khổ (xem G 1,1-5; 29,1-25). Thông thường người làm ơn sẽ trở thành ân nhân và được những người thụ ơn kính trọng và biết ơn. Những người chia sẻ của cải của họ cho người khác còn được tiếng tốt trong xã hội. Tuy nhiên, trong trường hợp Mc 10,21, Đức Giê-su không đề nghị anh ta chia sẻ của cải cho những người túng thiếu để trở thành ân nhân của họ. Trong bản văn, Đức Giê-su đề nghị anh ta từ bỏ tất cả của cải anh ta có, làm một lần cho tất cả, và như thế, anh ta cũng mất luôn khả năng trở thành “ân nhân”, vì sau đó anh ta chẳng còn của cải gì nữa để ban phát. Anh ta phải lựa chọn một trong hai điều này: Giữ lấy nhiều của cải của mình hay đi theo Đức Giê-su và làm môn đệ của Người. Trong bối cảnh thời Đức Giê-su, Người mời gọi anh ta giải thoát khỏi mọi thứ ràng buộc để có thể tự do đi theo Người, đó là cuộc sống nay đây mai đó trong hành trình đi rao giảng. Người “có nhiều của cải” không thích hợp với lối sống này.
Đáng tiếc là anh ta muốn giữ lấy “nhiều của cải” của anh ta, điều này làm cho anh ta không thể đi theo Đức Giê-su và trở thành môn đệ của Người được. Trường hợp này gợi ý rằng người “có nhiều của cải” có thể dành suy nghĩ và năng lực của mình để thu tích của cải và xem nhẹ việc tìm kiếm Vương Quốc Thiên Chúa. Khi sự giàu có, quyền lực làm nẩy sinh an toàn giả tạo nơi con người, thì Đức Giê-su lại loại bỏ chúng và xem như đó là một trong những điều kiện để vào Vương Quốc Thiên Chúa.
Trên bình diện văn chương, sự thay đổi nhanh chóng từ nhiệt tình hăm hở “chạy đến quỳ xuống trước Đức Giê-su và hỏi Người “phải làm gì để có sự sống đời đời làm gia nghiệp” đến thái độ “sầm mặt lại” và “buồn rầu bỏ đi” là một trong những nét độc đáo trong nghệ thuật hành văn của Tin Mừng Mác-cô.
2. Vào Vương Quốc của Thiên Chúa (10,23-27)
Sau khi người “có nhiều của cải” “buồn rầu bỏ đi” (10,22), Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh và nói với các môn đệ: “Thật khó biết bao cho những người có của đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,23). Sự ngạc nhiên của các môn đệ tăng lên với những lời tuyên bố của Đức Giê-su. Những lời khẳng định của Đức Giê-su tiến triển từ “khó” đến “không thể” vào Vương Quốc Thiên Chúa. Điều này không chỉ áp dụng cho “người có của cải” mà còn áp dụng cho tất cả mọi người. Những ý tưởng này thể hiện qua cấu trúc đoạn văn 10,23-27:
Cấu trúc trên cho thấy ba ý chính trong đoạn văn 10,23-27. Phần thứ nhất (10,23-24) nói đến ý tưởng “khó” vào Vương Quốc của Thiên Chúa. Trước hết là “khó cho những người có của cải”, Đức Giê-su tuyên bố: “Thật khó biết bao cho những người có của đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,23), kế đến là “khó cho mọi người”, vì Đức Giê-su nói: “Các con ơi, thật là khó biết bao để đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,24b). Câu này xuất hiện trong nhiều thủ bản Hy Lạp cổ. Một số thủ bản khác viết: “Các con ơi, thật là khó cho những kẻ cậy dựa vào của cải để đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,25), có lẽ cụm từ “những kẻ cậy dựa vào của cải” đã được thêm vào để trùng khớp với ý lời Đức Giê-su đã nói trước đó ở 10,23 (xem chi tiết các thủ bản ở chú thích Mc 10,24 trong Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt). Chúng tôi theo bản văn Hy Lạp Mc 10,24 của Nestle-Aland, Novum Testamentum Graece, (27th Revised Edition), Stuttgart, Deutsche Bibelgesellschaft, 1996: “Thật là khó biết bao để đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,24b). Trong trường hợp này, sự khó khăn để vào Vương Quốc Thiên Chúa được mở rộng đến mọi người. Ở giữa hai khẳng định: “Khó cho những người có của cải” và “khó cho mọi người” là sự “sững sờ kinh ngạc” của các môn đệ (10,24a).
Phần thứ hai (10,25-26) có ý tưởng chính là “không thể” vào Vương Quốc Thiên Chúa. Trước hết là “không thể” cho người giàu. Ý tưởng “không thể” diễn tả qua câu nói của Đức Giê-su: “Con lạc đà chui qua lỗ kim thì dễ hơn người giàu đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,25). Lạc đà là thú vật nuôi lớn nhất ở vùng Pa-lét-tin biểu thị cho hình dạng to lớn, trong khi lỗ kim biểu thị cho cái nhỏ nhất. Việc “con lạc đà chui qua lỗ kim” là điều “không thể”. Hơn nữa, ý tưởng “người giàu “không thể” vào Vương Quốc Thiên Chúa còn được nhấn mạnh vì “con lạc đà chui qua lỗ kim” còn dễ hơn, nghĩa là “hoàn toàn không thể”.
Có lẽ ngạc nghiên bởi sự cường điệu quá mức giữa “con lạc đà” và “lỗ kim” nên một số thủ bản Hy Lạp cố gắng làm giảm bớt sự tương phản, để cái “không thể” trở thành “khả thể” hơn một chút. Thực vậy, một số thủ bản Hy Lạp đã thay thế danh từ Hy Lạp “kamêlon” (con lạc đà, camel) bằng từ gần giống: “kamilon” (giây thừng, rope). Cho dù, xỏ dây thừng qua lỗ kim cũng là việc không thể làm được, nhưng dù sao cũng không đến nỗi cường điệu như hình ảnh “con lạc đà chui qua lỗ kim.” Giải thích khác cho rằng ở Giê-ru-sa-lem đã từng có cổng thành mang tên “lỗ kim” (Eye of the Needle Gate), đây là cách giải thích giảm nhẹ sự tương phản và thiếu cơ sở. J. R. Donahue and D. J. Harrington nhận định: “Ý tưởng về hiện hữu một ‘cổng thành lỗ kim’ (Eye of the Needle Gate) hay ‘cổng thành lạc đà’ (Camel’s Gate) ở Giê-ru-sa-lem là không có nền tảng lịch sử và cũng chỉ để giảm nhẹ sự cường điệu” (J. R. DONAHUE; D. J. HARRINGTON, Gospel of Mark, 2002, p. 304). Cũng vậy, theo P. Minear, những cách hiểu trên đây là “thu nhỏ con lạc đàvà mở rộnglỗ kim” (P. MINEAR, “Needle’s eye”, p. 169).
Thực ra, câu nói của Đức Giê-su về tương quan giữa “lạc đà – lỗ kim” và “người giàu vào Vương Quốc Thiên Chúa” là phù hợp với bối cảnh văn chương của đoạn văn 10,17-31. So sánh của Đức Giê-su qua hình ảnh “con lạc đà chui qua lỗ kim thì dễ hơn người giàu đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,25) là nhấn mạnh thêm ý tưởng Người đã nói trước đó: “Thật khó biết bao cho những người có của đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,23). J. Marcus nối kết hình ảnh “lạc đà” và “của cải” như sau: “Đã không thểthực hiện được việc một con vậtlớnchui qualỗ kim, thì còn trở nên vô lý hơn nữa khi con vậtđượcchất đầy tài sản” (J. MARCUS, Mark 8–16, 2009, p. 731). Như cấu trúc cho thấy, câu nói của Đức Giê-su về con lạc đà và lỗ kim đã làm cho các môn đệ “hết sức kinh ngạc nói với nhau: ‘Vậy thì ai có thể được cứu?’” (10,26). Trong câu hỏi này, các môn đệ đã mở rộng sự “không thể” đến tất cả mọi người khi dùng đại từ “ai”.
Trước sự “khó khăn” rồi “không thể” “vào Vương Quốc Thiên Chúa”, không chỉ đối với người giàu mà còn đối với tất cả mọi người, Đức Giê-su đưa ra lời giải đáp tích cực, mở lối hy vọng cho con người: “Đối với loài người thì không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa” (10,27). Đây là ý tưởng nền tảng và quan trọng, bởi vì trước hết “vào Vương Quốc Thiên Chúa” là quà tặng của Thiên Chúa. Thực vậy, trong đoạn văn trước đoạn văn 10,17-31, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ về trẻ em và Vương Quốc Thiên Chúa: “14b Hãy để các trẻ em đến với Thầy, hãy đừng ngăn cấm chúng, vì Vương Quốc của Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. 15 A-men, Thầy nói cho anh em: Người nào không đón nhận Vương Quốc Thiên Chúa như một trẻ em thì chắc chắn người ấykhông được vào đó” (10,14b-15). Lời khẳng định này cho thấy con người chỉ có thể vào Vương Quốc Thiên Chúa bằng cách đón nhận điều ấy như là quà tặng của Thiên Chúa. Trước sự bất lực của con người để vào Vương Quốc Thiên Chúa, giải pháp là “mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa” (10,27b). Quyền năng của Thiên Chúa và quà tặng của Người nối kết với đoạn văn trước (10,17-22) nhằm trả lời cho câu hỏi: “Phải làm gì để có sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (10,17b)
Nói cách khác, mọi người điều có thể vào Vương Quốc của Thiên Chúa nếu như họ không để của cải làm cản trở đến quyết định ĐẾN VỚI Đức Giê-su, ĐI THEO Người và TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ của Người. Làm môn đệ Đức Giê-su hàm ẩn tuân giữ giáo huấn và các điều răn của Người, đồng thời con người cần mở lòng ra đón nhận quà tặng của Thiên Chúa. Trong đoạn văn tiếp theo (10,28-30), giọng văn có phần lạc quan hơn về phía con người. Thực vậy, các môn đệ đã từ bỏ mọi sự, nhưng họ không những không mất gì cả mà còn nhận lại được gấp trăm.
3. Phần thưởng dành cho môn đệ (10,28-30)
Lời Phê-rô nói với Đức Giê-su: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà đi theo Thầy”, tương phản với quyết định bỏ đi của “người có nhiều của cải” trong đoạn văn 10,17-22. Thực vậy, khi Đức Giê-su đề nghị anh ta từ bỏ của cải để theo Người, người thuật chuyện cho biết: “Anh ta sầm mặt lại vì lời ấy và anh ta buồn rầu bỏ đi” (10,22). Người này đã từ chối trở thành môn đệ Đức Giê-su, anh ta không muốn “từ bỏ mọi sự mà đi theo Đức Giê-su”, như trong lời nói của Phê-rô.
Câu trả lời của Đức Giê-su cho các môn đệ ở 10,29-30 mô tả tương phản mạnh mẽ khác: Các môn đệ từ bỏ mọi sự để theo Đức Giê-su, nhưng họ không mất gì cả, ngược lại họ nhận được gấp trăm những thứ mà họ đã từ bỏ. Tìm hiểu cấu trúc lời Đức Giê-su tuyên bố ở 10,29-30 sẽ cho thấy nhiều điểm thú vị.
Những ý tưởng ở 10,29 song song với 10,30. Phần đầu (10,29) gồm 8 yếu tố. Phần sau (10,30) chia thành hai giai đoạn: (I) “Bây giờ, trong thời gian này” và (II) “trong thời đang đến”. Danh sách phần thưởng “trong thời này” song song với 8 yếu tố trong phần thứ nhất (10,29), ngoại trừ yếu tố thứ 5 không có trong phần sau (yếu tố 5’ ở 10,30). Thực vậy, yếu tố “cha” trong danh sách từ bỏ (yếu tố 5 ở 10,29), không xuất hiện trở lại trong danh sách “nhận lại”, cấu trúc trên cho thấy yếu tố 5’ bỏ trống. Một chi tiết khác là yếu tố 8’ ở 10,30: “cùng với sự ngược đãi” không phải là phần thưởng. Bốn điểm dưới đây sẽ nhận xét về cấu trúc cũng như giải thích những điểm lạ thường trong cấu trúc trên.
(1) Cấu trúc song song giữa 10,29 và 10,30 nhấn mạnh ý tưởng này: Khi các môn đệ bỏ mọi sự để theo Đức Giê-su thì họ không mất gì cả mà còn nhận lại được gấp trăm. Điều này diễn tả qua việc những yếu tố trong “danh sách từ bỏ” (10,29) sẽ được thay thế bằng các yếu tố tương tự trong “danh sách nhận lại gấp trăm” (10,30).
(2) Tại sao không có yếu tố 5’ (10,30) song song với yếu tố 5 (yếu tố “cha”) ở 10,29? Có thể giải thích rằng Thiên Chúa là “Cha” của các môn đệ, thay thế cho “cha” trần thế. Thực vậy, ở Mc 11,25, Đức Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện như sau: “Khi anh em đứng cầu nguyện, anh em hãy tha thứ nếu anh em có gì bất bình với người nào, để Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, cũng tha cho anh em những lỗi lầm của anh em” (11,25). “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” là Cha của các môn đệ Đức Giê-su.
Đồng thời, hình ảnh “cha” cũng có thể áp dụng cho chính Đức Giê-su. Danh từ Hy Lạp “teknon” (con) ở số nhiều: “tekna” (các con, con cái) xuất hiện 2 lần ở 10,29 và 10,30 trong các yếu tố song song: 6 // 6’. Yếu tố “con cái” này trình bày cùng với các yếu tố khác trong quan hệ gia đình: “cha”, “mẹ”, “anh em”, “chị em”. Điều lạ lùng là Đức Giê-su cũng dùng từ “tekna” (các con, con cái) để gọi các môn đệ ở 10,24. Người nói với các môn đệ: “Các con ơi (tekna), thật là khó biết bao để đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,24).
Có thể hiểu rằng, vào thời điểm biên soạn Tin Mừng Mác-cô, Đức Giê-su đã được cộng đoàn tuyên xưng là Chúa, Người thực là Con Thiên Chúa (15,39), và sau biến cố Thương Khó – Phục Sinh, Đức Giê-su “được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (16,19). Đức Giê-su là đối tượng niềm tin của cộng đoàn, nên hình ảnh “Cha” có thể được gán cho Đức Giê-su qua cách Người xưng hô với các môn đệ: “các con” (10,24).
(3) Cụm từ “cùng với sự ngược đãi” (yếu tố 8’) ở 10,30 không phải là phần thưởng, đồng thời làm gián đoạn các yếu tố tích cực. Tuy vậy, sự xuất hiện yếu tố “ngược đãi” có ý nghĩa quan trọng. Yếu tố 8’ ở 10,30 này song song với yếu tố 8 ở 10,29: “vì Thầy và vì tin mừng”. Trong thế gian này, các môn đệ có thể bị ngược đãi, bị bách hại “vì Đức Giê-su và vì tin mừng.” Sự xuất hiện yếu tố 8’: “cùng với sự ngược đãi” nhắc nhở cộng đoàn môn đệ rằng việc tham dự vào Vương Quốc Thiên Chúa bây giờ, không loại bỏ mầu nhiệm thập giá. Đối với các môn đệ, những phần thưởng “trong thời gian này” và “trong thời đang đến” (10,30) là quá lớn lao và quá tuyệt vời, không thể so sánh được với bất kỳ thứ gì khác. Vì thế, người môn đệ dám hy sinh tất cả mọi thứ khác, kể cả mạng sống của mình khi cần thiết “để có sự sống đời đời làm gia nghiệp” (10,17).
(4) Có sự tương phản đáng chú ý giữa (a) sự quá phong phú của các phần thưởng “bây giờ, trong thời gian này” với 6 yếu tố và nhận được gấp trăm: “nhà cửa và anh em, chị em, mẹ, con cái, ruộng đất” (10,30a) với (b) chỉ duy nhất một phần thưởng “trong thời đang đến” là “sự sống đời đời” (10,30b). Sự tương phản này làm nổi bật phần thưởng quý giá nhất là “sự sống đời đời”, như thể chỉ một phần thưởng “sự sống đời đời” đã có giá trị hơn tất cả những phần thưởng khác “bây giờ, trong thời gian này.” Như thế, những phần thưởng gấp trăm trong thời gian này là sự nếm hưởng trước phần thưởng “sự sống đời đời” trong thời đang đến. Nói cách khác, “Danh sách phần thưởng mô tả sự mở đầu hay tham dự vào những khía cạnh của Vương Quốc Thiên Chúa, đã được trải nghiệm trong cộng đoàn Ki-tô hữu” (J. R. DONAHUE; D. J. HARRINGTON, Gospel of Mark, 2002, p. 305-306).
4. Nguyên tắc: “Đứng đầu – đứng chót” (10,31)
Lời nói của Đức Giê-su ở 10,31: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ đứng chót và những kẻ đứng chót sẽ đứng đầu” như thể là một lời độc lập, bị lạc khỏi bối cảnh văn chương của nó và được đặt vào đây (10,31). Tuy nhiên, nếu liên kết lời này (10,31) với bối cảnh văn chương trước (10,17-30) và sau (10,32-34) nó, thì đây là nguyên tắc quan trọng với nhiều cách áp dụng. Thực vậy, nguyên tắc đảo ngược (10,31) có thể áp dụng cho “người có nhiều của cải”, cho các môn đệ, và ngay cả có thể áp dụng vào cuộc đời Đức Giê-su. Từ Hy Lạp: “nhiều người” (polloi) ở đầu câu 31 chỉ ra rằng, không phải tất cả “đứng đầu sẽ đứng chót” mà là “nhiều người”. Có thể áp dụng nguyên tắc đảo ngược này theo hai nhóm: (1) Đảo ngược một chiều gồm hai ý: (a) “đứng đầu sẽ đứng chót”, (b) “đứng chót sẽ đứng đầu”. (2) Đảo ngược hai chiều: “Đứng đầu sẽ đứng chót, sau đó, đứng chót sẽ đứng đầu”.
(1) Đảo ngược một chiều
(a) Đảo ngược một chiều thứ nhất “kẻ đứng đầu sẽ đứng chót” có thể áp dụng cho người giàu hay cho các môn đệ. Đối với người có nhiều của cải như ở 10,22, nếu họ chỉ cố gắng làm họ thành “kẻ đứng đầu” bằng cách thu tích và trông cậy vào của cải “trong thời gian này” (đời này), họ sẽ trở thành “kẻ đứng chót” “trong thời đang đến” (đời sau).
Đối với các môn đệ, những phần thưởng “trong thời này” (10,30) có thể xem là những giá trị cao quý. Tuy nhiên, nguyên tắc “kẻ đứng đầu sẽ đứng chót” có thể hiểu như lời cảnh báo về sự kiêu căng tự mãn của các môn đệ trong cộng đoàn. Một số môn đệ có thể tự mãn về những phần thưởng “trong thời này”, và nghĩ rằng họ là “người đứng đầu”. Trong trường hợp này, họ sẽ trở thành “đứng chót” “trong thời đang đến” theo nguyên tắc đảo ngược “kẻ đứng đầu sẽ đứng chót”. Chẳng hạn, khi các môn đệ tranh luận với nhau ai là người lớn nhất (Mc 9,34), nghĩa là ai cũng muốn làm “người đứng đầu”, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Nếu ai muốn là người đứng đầu, sẽ là người đứng sau mọi người và là người phục vụ mọi người” (9,35). Thực ra, bất cứ ai, kể cả các môn đệ, đều có thể bị cám dỗ trở thành “kẻ đứng đầu” trong thế gian này.
(b) Đảo ngược một chiều thứ hai “kẻ đứng chót sẽ đứng đầu” có thể áp dụng cho hoàn cảnh của các môn đệ. Họ là những người đã từ bỏ mọi sự để theo Đức Giê-su. Họ trở thành “kẻ đứng chót”, vì thế, theo nguyên tắc đảo ngược, họ sẽ trở thành “kẻ đứng đầu”, họ được thừa hưởng một gia đình mới là cộng đoàn Hội Thánh và có Cha là Thiên Chúa. Với những phần thưởng như đã phân tích, các môn đệ trở thành “kẻ đứng đầu” “trong thời gian này” và thừa hưởng “sự sống đời đời” “trong thời đang đến” (Mc 10,30).
(2) Đảo ngược hai chiều
Đảo ngược hai chiều “kẻ đứng đầu sẽ đứng chót”, “kẻ đứng chót sẽ đứng đầu” có thể áp dụng cho cuộc đời của Đức Giê-su và của các môn đệ. Trong mạch văn 10,17-31, nguyên tắc đảo ngược (10,31) được đặt ngay sau ý tưởng các môn đệ bị ngược đãi (10,30) và được đặt ngay trước lời Đức Giê-su báo trước Thương Khó và Phục Sinh của Người (10,32-34). Đức Giê-su nói với Nhóm Mười Hai ở 10,33-34: “Này chúng ta đi lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và các kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người
và sẽ nộp Người cho dân ngoại. 34 Họ sẽ nhạo báng Người và sẽ khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn Người và sẽ giết chết Người, và sau ba ngày, Người sẽ sống lại.”
Đức Giê-su là “Đấng đứng đầu”, Người là Con Thiên Chúa, nhưng đã trở nên “đứng chót” vì đã chịu đau khổ và chết trên thập giá. Nhưng theo vế thứ hai của nguyên tắc đảo ngược “kẻ đứng chót sẽ đứng đầu”, biến cố Phục Sinh đã làm cho Đức Giê-su trở thành “Đấng đứng đầu”. Các môn đệ cũng theo tiến trình này trong hoàn cảnh bị ngược đãi và bách hại. Họ trở thành “kẻ đứng chót” khi đi theo Đức Giê-su trên con đường thập giá. Vì trung tín với Đức Giê-su cho đến chết, họ sẽ được phục sinh và sống hạnh phúc trong Vương Quốc Thiên Chúa.
Tóm lại, cuộc đời của Đức Giê-su và của các môn đệ có thể áp dụng vào nguyên tắc đảo ngược hai chiều: Từ “đứng đầu” trở thành “đứng cuối” để rồi sau đó lại được nâng lên thành “đứng đầu”. Trong mạch văn 10,17-31, nguyên tắc này cũng có thể áp dụng cho mọi người. Thay vì trở nên “kẻ đứng đầu” bằng cách thu tích của cải và dựa trên những giá trị trần thế chóng qua, Đức Giê-su mời gọi mọi người can đảm trở thành “kẻ đứng chót”, đi theo Người và làm môn đệ của Người để trở thành “kẻ đứng đầu”.
IV. Kết luận
Trong đoạn văn Mc 10,17-31, trước hết, Đức Giê-su trả lời câu hỏi của người đã chạy đến quỳ xuống trước Người và hỏi: “Thưa Thầy tốt lành, tôi phải làm gì để có sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (10,17) trong tiểu đoạn 10,17-22. Kế đến, Đức Giê-su nói về tình trạng của các môn đệ là những người đã bỏ mọi sự để theo Đức Giê-su (10,28-30). Đoạn văn ở giữa (10,23-37) bàn về “không thể” và “có thể” vào Vương Quốc Thiên Chúa. Điều này không chỉ liên quan đến người giàu mà còn liên quan đến tất cả mọi người. Đoạn văn kết thúc với nguyên tắc đảo ngược (10,31) có thể áp dụng nhiều cách khác nhau.
Những đề tài trên vẫn mang tính thời sự. Ý nghĩa của đoạn văn trên đây, trước hết là thông điệp dành cho cộng đoàn Mác-cô vào cuối thế kỷI. Ngày nay, câu chuyện là những lời nhắn gửi đến độc giả. Nội dung trình thuật không có ý khinh rẻ sự giàu có và đề cao nghèo khó. Trong đoạn văn 10,17-22, Đức Giê-su cũng không mời gọi nhân vật “có nhiều của cải” chia sẻ của cải của anh ta để trở thành ân nhân của người khác. Đề nghị của Đức Giê-su rất triệt để: “Anh hãy ra đi, hãy bán những gì anh có và cho người nghèo” (10,21) và làm một lần cho tất cả. Các môn đệ được định nghĩa là “người đã bỏ mọi sự” mà đi theo Đức Giê-su (10,28). Ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su phải chọn một trong hai điều: “giữ lấy của cải của mình” hay “đến và theo Đức Giê-su” (10,22). Nói cách khác, đó là lựa chọn giữa “giữ lấy tất cả” hay “từ bỏ mọi thứ” để đi theo Đức Giê-su (10,28).
Điểm nổi bật nhất trong câu chuyện là lời mời gọi đi theo Đức Giê-su và trở thành môn đệ của Người. Tất cả những thứ làm cản trở tiến trình “trở thành môn đệ” được đặt vào hàng thứ yếu. Trong viễn cảnh này, J. MARCUS viết: “Trở nên giàu có không phải là điều xấu, nhưng là trông cậy vào sự giàu có của mình (cf. 1 Tim 6,17)” (J. MARCUS, Mark 8–16, 2009, tr. 730). Như thế, cụm từ “người có của” trong câu Đức Giê-su nói: “Thật khó biết bao cho những người có của đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,23) có thể hiểu theo nghĩa: “người tin cậy vào của cải” (those who trust in riches). Theo mạch văn, ý tưởng “tin cậy vào của cải” có thể hiểu theo nghĩa rộng. Đó là tin tưởng và trông chờ vào của cải vật chất, vào tài năng, vào quyền lực, danh tiếng, vào sự thành công trong cuộc sống, ngay cả cậy dựa và tự mãn về những giá trị tinh thần mình có. Tất cả những điều này có thể cản trở quyết định “ĐẾN VỚI” và “ĐI THEO” Đức Giê-su.
Ý tưởng quan trọng khác trong đoạn văn Mc 10,23-37 là từ “khó khăn” đến “không thể” vào Vương Quốc Thiên Chúa, và không chỉ áp dụng cho những người giàu mà còn áp dụng cho tất cả mọi người. Khẳng định này nhắc nhở mọi người rằng, “Vương Quốc Thiên Chúa” trước hết là quà tặng của Thiên Chúa. “Không thể” đối với con người nhưng “mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa” (10,27b). Vì thế, con người cần mở lòng ra đón nhận quà tặng của Thiên Chúa và thực hiện giáo huấn của Đức Giê-su. Nói cách khác, bất cứ ai can đảm từ bỏ mọi thứ để trở thành môn đệ Đức Giê-su, người ấy sẽ nhận lại được gấp trăm “bây giờ, trong thời gian này” và “sự sống đời đời trong thời đang đến” (10,30). Phần thưởng này thực sự quá lớn lao đến nỗi người môn đệ chấp nhận hy sinh tất cả mọi thứ khác, ngay cả hiến dâng mạng sống mình nếu cần thiết, vì Đức Giê-su và vì tin mừng (xem bài viết “Tin mừng trong sách Tin Mừng Mác-cô”). Đó là nguyên tắc đảo ngược trong giáo huấn của Đức Giê-su: “Kẻ đứng đầu sẽ đứng chót và những kẻ đứng chót sẽ đứng đầu” (10,31)./.
Thư mục
DONAHUE, J. R.; HARRINGTON, D. J., The Gospel of Mark, (Sacra Pagina 2), Collegeville (MN), The Liturgical Press, 2002, xv, 488 p.
MANN, C. S., Mark, A New Translation With Introduction and Commentary, (Anchor Bible 27), New York(NY), Doubleday, 1986, xxvi, 715 p.
MARCUS, J., Mark 8–16, A New Translation with Introduction and Commentary, (Anchor Yale Bible 27A), New Haven & London, YaleUniversity Press, 2009, i-lx, 571-1182 p.
P. MINEAR, “Needle’s eye”, JBL 61 (1942) 157-169.
Ngày 07 tháng 10 năm 2012
Giuse LÊ MINH THÔNG, O.P.
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com