Linh mục trong Tương Quan với Giáo xứ và Giáo phận

Linh mục trong Tương Quan với Giáo xứ và Giáo phận

Có nhiều định nghĩa về linh mục. Theo truyền thống, thì linh mục là mục tử, dựa trên hình ảnh của Chúa là đấng chăn chiên lành; là alter Christus, nghĩa là Đức Kitô đệ nhị vì ngài thi hành các bí tích thay mặt Chúa Giêsu; là môn đệ theo Chúa. Theo lối mới, linh mục là người Chúa gọi và chọn, thi hành ba nhiệm vụ căn bản trong Giáo hội: điều hành, giảng dậy và tư tế. Linh mục là người phục vụ, và Giáo hoàng là tôi tớ của các tôi tớ Chúa (servus servorum Dei). Vị giáo hoàng đầu tiên dùng cụm từ “tôi tớ của các tôi tớ Chúa” là thánh Gregory I (590-604). Vào thời đó, bị ảnh hưởng trần tục, tổng giám mục thành Constantinople là John the Faster chọn tước hiệu Giáo phụ Toàn Cầu (Ecumenical Patriarch). Đức giáo hoàng Gregory nhận tước hiệu khiêm hạ để chỉ vai trò và chức tước của người thay mặt thánh Pherô ở Roma. Sau đó, các vị giáo hoàng khác đôi khi cũng dùng tước hiệu này. Đến thế kỷ thứ 9 thì các vị giáo hoàng dùng thường xuyên hơn. Có vẻ “hay hay” vài hoàng đế Âu châu thời trung cổ cũng nhận mình là tôi tớ các tôi tớ. Từ thế kỷ thứ 12, cụm từ dành riêng cho Giáo hoàng. Sau công đồng Vatican II, các vị giáo hoàng dùng tước hiệu này rất thường xuyên thay vì những cụm từ khác quá nghi thức và trần thế.

Một định nghĩa mà nhiều người hiện nay, nhất là các bạn trẻ, ưa thích “linh mục là người bình thường có ơn gọi thần thiêng.” (Priests are “the ordinary people with a holy call.”)

Đúng vậy, linh mục là người bình thường như muôn vàn người khác. Theo kiểu nói Á đông, thì vẫn còn hỉ, nộ, ái, ố, thất tình, lục dục và khuy‎ết điểm. Trong khi cần giảng hay nói giỏi, có vị nói “cà lăm,” lắp bắp; cần điều hành tốt, thì trước khi đi tu, đứng gần bét các môn kinh tế và quản trị; cần xuất sắc với vai trò tư tế, tức là cử hành bí tích, thì “luống ca luống cuống, lập cà lập cập” trước đám đông. Có vị gặp người khác phái, run lẩy bẩy như thằn lằn đứt đuôi. Ngược lại, có vị bị phê bình, là nói chuyện cứ tươm tướp, dòn như pháo rang. Vị khác luôn xưng mình là cha, dù nói chuyện với các cụ lớn hơn cả tuổi bố mẹ mình. Lại đôi khi đi vào “lịch sử” cách không oai hùng cho lắm. Việt Nam chúng ta có nhiều đời vua, nào Tiền Lê rồi Hậu Lê, nào Tiền Lý rồi Hậu Lý. Tiền đây nghĩa là trước, nay bị ghép vào tên riêng các ngài thành ra tiền bạc.

Nhưng linh mục là người có ơn gọi thần thiêng. Điểm quan trọng, làm sao nhận ra ơn gọi thần thiêng? Phải chăng trong giấc ngủ, Chúa hiện ra và nói “cha chọn con” hay một dấu chỉ hữu hình cho thấy ứng viên là linh mục? Đã có nhiều câu truyện rất “thơ mộng” về ơn gọi, nhưng hình như trong vạn người, mấy ai được như vậy? Vài vị quả quyết “nếu Chúa chọn làm linh mục, dù ở trong bụi tre, Chúa cũng lôi ra.” Hỡi ơi, trên thực tế thì chưa thấy ai ở trong bụi tre mà Chúa gọi ra bao giờ, chỉ bị tre cào rách mặt thì nhiều!!!

Làm cách nào nhận ra ơn gọi thần thiêng?

Ứng viên, khi bước lên đại chủng viện, cùng với văn hóa và hiểu biết trần thế, lưu tâm đến ba khía cạnh quan trọng “tu đức, trí thức và mục vụ.” Bên cạnh ba khía cạnh này, Hội đồng Giám mục Hoa kỳ trong “Priestly Formation Program” (PPF) nhấn mạnh huấn luyện nhân bản. Mục đích huấn luyện nhân bản giúp ứng viên nhận ra mình và tha nhân cùng nhịp cầu nối kết chứ không cản trở nhau. Nói cách khác, không sợ tha nhân, và không coi bản thân hoặc tha nhân như cơn cám dỗ. Đức giáo hoàng Gioan Phaolo II đưa ra tiêu chuẩn huấn luyện qua “Pastores Dabo Vobis.” Nếu ứng viên nhận thấy hội đủ điều kiện như học vấn -ít là trung bình- chấp nhận sống đời thanh khiết, vâng phục quyền bính, không mê thích của cải trần thế, không đi tu trốn nợ đời, thì như vậy, có dấu hiệu làm linh mục, tức là ơn gọi thần thiêng.

Các loại linh mục: triều và dòng.

Khi đi tu, ứng viên lựa chọn một trong hai lối sống: triều hoặc dòng. Linh mục triều chú trọng mục vụ nơi xứ đạo, còn linh mục dòng, với ơn đặc sủng, thường chú tâm đến sinh hoạt liên xứ đạo, liên địa phận, như truyền giáo, cấm phòng chung, dậy học, truyền thanh, truyền hình, báo chí.. Linh mục triều ngày xưa còn được gọi là các cha quan triều. Lý do, các ngài đội mũ ba chòm trong giống mũ các quan. Lại có người giải thích quan triều vì làm quan cho Chúa. Linh mục triều tuyên thệ thanh khiết và vâng phục giám mục. Với nhu cầu mục vụ, ngài có quyền tư hữu sống độc lập. Còn linh mục dòng thì chung sống trong cộng đoàn. Nhà dòng đặt nền tảng trên đời sống chung và ba lời khuyên phúc âm, vâng lời, thanh sạch và thanh khiết, nên tu sĩ khấn ít là ba lời này. Tuy nhiên, thời nay, luật lệ về tư hữu và sống chung nơi linh mục dòng không đòi hỏi như xưa. Nhiều dòng cho phép tu sĩ ở riêng và sở hữu một số bất động sản thiết yếu như xe cộ, sách vở, quần áo, máy móc…

Số linh mục trên thế giới.

Dù là triều hay dòng, các vị được gọi chung là linh mục. Theo số thống kê hằng năm gửi đến tòa thánh, và do trung tâm CARA nghiên cứu tôn giáo của đại học Georgetown phổ biến, hiện có khoảng 408. 024 linh mục trên toàn thế giới.

Tổng số linh mục không khác biệt nhiều tính từ năm 1970 đến 2007. Hơn thế nữa, hiện đang có chiều hướng ổn định và đi lên, nếu nhìn đến số tân linh mục (6.660 vị vào năm 2007). Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là số tín hữu gia tăng rất nhanh. Từ 653.600.000 vào năm 1970 thành 1.147.000.000 người, tức là gần gấp đôi.

Như vậy, tổng số nam nữ tu sĩ giảm rất nhiều.

Riêng tại Hoa kỳ, thống kê bình quân, một linh mục coi sóc mục vụ 6. 200 người Công giáo.

Còn tại Việt Nam, bình quân, một linh mục Việt Nam coi sóc mục vụ 1. 600 người.

Các giáo phận có nhiều linh mục nhất tại miền Nam là tổng giáo phận thành phố Sài gòn (Hồ chí Minh) với 610; miền Trung là Nha Trang 179 và miền Bắc là Bùi chu 224. Tuy nhiên, nếu tính cả linh mục dòng không làm việc trực tiếp cho giáo phận, có lẽ con số còn cao hơn?

Mục vụ linh mục.

Như đã nêu trên, ba bổn phận chính của linh mục là tư tế (munus liturgicum,) giảng dậy (ngày trước gọi là tiên tri -munus docendi-) và điều hành (ngày trước gọi là vương giả -munus regendi-).

Nếu giám mục có trách nhiệm “munus regendi” nơi giáo phận, thì linh mục cũng có bổn phận như vậy trong giáo xứ mà mình được bổ nhiệm.

Sau khi hội đủ đòi hỏi cần thiết và căn bản trong đại chủng viện, linh mục cần tiếp tục cập nhật hóa khả năng, qua khóa thường huấn do giáo phận hoặc dòng tu tổ chức. Khóa thường huấn không chỉ giúp linh mục giảng dậy hay và chính xác, mà còn hoàn thiện thêm bổn phận tư tế và điều hành. Nên nhìn nhận nơi đây, việc tham dự các khóa thường huấn không được chú trọng cho lắm. Đây là điểm đáng buồn. Thực tế cho thấy nhiều giáo dân tiếp tục cập nhật hóa hiểu biết về thần học, thánh kinh và mục vụ, trong khi bậc chủ chăn sống những “giáo huấn” của vài chục năm về trước. Chính vì vậy nhiều ngộ nhận đã xẩy ra.

Bổn phận linh mục với giáo xứ.

Bổn phận tư tế, giảng dậy, điều hành rất rõ nét trong mục vụ nơi xứ đạo.

Bên cạnh các bổn phận chính, một giáo xứ sinh động nhờ sinh hoạt trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến giáo xứ. Nhiều địa phận phân chia đoàn thể hoặc ủy ban làm nhiều loại:

Tất cả sinh hoạt của những đoàn thể trên cần sự nâng đỡ của cha xứ.

Liên hệ giữa giáo xứ, giáo dân và cha xứ

Chuyên gia tôn giáo nhận định, tệ hại nhất sẽ xẩy ra khi chỉ nhìn giáo xứ như thể chế thế quyền mà cha xứ đóng vai trò “manager”, chủ nhân, quản trị, điều hành, nhân viên được thuê. Vai trò này có thể do giáo dân nhìn vào cha xứ, có thể do cha xứ sống như vậy. Thực rõ ràng, một cha xứ được giáo dân thương mến nhiều hay ít, phần lớn nhờ khả năng và cố gắng, hơn là chức vị ngài đang mang. Dĩ nhiên, với tư cách linh mục, giáo dân thường dễ bầy tỏ lòng yêu thương và nâng đỡ, nhưng không có nghĩa đó sẽ là việc tất nhiên.

Giáo xứ là thân thể hữu hình của Đức Kitô. Giáo xứ đem mọi người hợp nhất trong Nước Trời. Đây là nơi chốn chuẩn bị mầu nhiệm Nước Trời khi sống yêu thương, đùm bọc và tha thứ. Qua việc cử hành bí tích, mọi người nhận ra mình là anh em của cùng một Cha, dù khác mầu da, ngôn ngữ, trẻ già, nam nữ, nhân dạng.

Liên hệ giữa giáo xứ, giáo dân và cha xứ được định đoạt qua trình độ tinh thần của giáo xứ. Linh mục là vị lãnh đạo, là mục tử hướng dẫn đoàn chiên mà giám mục ủy thác. Linh mục không phải chỉ là người điều hành. Ngài là người lo lắng đời sống tinh thần và xã hội cho giáo xứ, cho giáo dân của ngài. Ngài chịu trách nhiệm trước giám mục và hơn thế nữa, trước Thiên Chúa.

Nhưng giáo xứ cũng làm nên linh mục. Cầu nguyện cho các ngài, góp ý, thực thi chương trình, tham gia sinh hoạt giáo xứ, tích cực đóng góp truyền giáo qua giáo xứ. Và đương nhiên, nhất là qua yêu thương, tương kính giữa cha xứ với giáo dân. Nhiều cha chánh, phó xứ đã buồn rầu chia sẻ: “Mình có làm gì đâu mà sao cả nhà họ chê bai, dèm pha mình? Mình chào, họ cũng phớt lờ đi.” Trong khi đó, giáo dân thì cho biết: “làm cha mà không khiêm tốn, mặt lúc nào cũng nghếch lên trời, giống như vừa đi vừa vác cằm!” Khổ nỗi chính cha cũng không biết thế nào là “vác cằm.” Mà không biết ai vác cằm nhỉ? Cha hay giáo dân?

Câu truyện phổ thông kể lại, đức giám mục địa phận đến thăm hầu hiểu dân trước khi bổ nhiệm cha xứ mới. Đa số nguyện vọng đều rất giá trị như “chúng con xin một cha giảng hay; chú tâm đến giới trẻ đang bị bỏ rơi; lo lắng các cụ già cô đơn; đừng chỉ đến với người giầu; tận tâm truyền giáo cho anh em tân tòng, người bỏ đạo; mở thêm lớp dậy Thánh-Kinh; lưu ý ý dân, đừng độc tài; không kiêu hãnh; hòa nhã; nối lại nhịp cầu với các vị chức sắc của hội đồng mục vụ đã bị cha xứ cũ bỏ quên; đừng chỉ nghe người thân cận; liên hệ tốt với nhà nước..” Vài tháng sau, giáo xứ vẫn chưa có cha xứ mới. Giáo dân viết thư hỏi tại sao. Đức giám mục trả lời: “Tôi vẫn chưa tìm ra, vì chính tôi cũng không hội đủ tiêu chuẩn mà ông bà đề nghị.”

 Lm Đào Quang Chính. OP

Exit mobile version