Linh đạo Truyền Giáo

Đức Phaolô VI phác hoạ linh đạo truyền giáo trong chương VII của Tông huấn Loan báo Tin Mừng. Đức Gioan Phaolô II trực tiếp đề cập tới linh đạo này trong chương VIII của Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Thế. Ngài cũng nhắc đến nhiều lần trong Giáo Hội tại Á Châu và mới đây trong hai Tông thư Bước vào ngàn năm mớiKinh Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria.

Chúng ta chia sẻ với nhau linh đạo này.

I. ĐỂ CHO CHÚA THÁNH THẦN HƯỚNG DẪN

Chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu để “Chèo ra chỗ sâu” (Duc in altum) là chủ đề của Tông thư Bước vào ngàn năm mới (Novo Millennio inuente). Chiêm ngắm Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra chân lý này: Ngài đã là sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất, là sứ giả Tin mừng đã đểcho Thần Khí hướng dẫn. Thần Khí đã xuống trên Đức Giêsu Nazareth vào lúc Ngài chịu thanh tẩy và được Chúa Cha giới thiệu là Con Chí Ái của Người (x. Mt 3,17). Chính vì “được Thần Khí dẫn đưa” (Mt 4,1), mà Ngài đã trải qua trong sa mạc cuộc chiến đấu quyết liệt và một cuộc thử thách lớn lao nhất trước khi bắtđầu sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Chính “với quyền năng của Thánh Thần” (Lc 4,14) mà Ngài đã trở về Galilê và mở đầu tại Nazareth công cuộc rao giảng, khi áp dụng đoạn sách tiên tri Isaia cho chính mình: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. Ngài công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh này” (Lc 4,18.21; x. Is 61,1). Nhờ quyền năng của Thần Khí, Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân và xua đuổi ma quỷ, như một dấu chỉ Nước Thiên Chúa đã đến (x. Mt 12,28). Vào buổi chiều Phục Sinh, Ngài thổi hơi trên các môn đệ sắp được phái đi mà nói với họ: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22).

Từviệc chiêm ngắm Đức Giêsu, sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất đã để cho Thần Khí hướng dẫn, ta thấy Linh đạo truyền giáo được thể hiện trước hết qua việc nhà truyền giáo để cho con người của mình trở nên hoàn toàn dể dạy đối với Chúa Thánh Thần, một sự dễ dạy để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn con người bên trong càng ngày càng nên giống Chúa Kitô. Không thể rao giảng và làm chứng về Chúa Kitô cũng như Tin Mừng của Ngài nếu bản thân nhà truyền giáo không phản ánh gương mặt Chúa Kitô. Gương mặt Chúa Kitô sẽ trở nên sống động trong chúng ta nhờ ân sủng và hoạt động của Thánh Thần.

Ngoài ra, sự dễ dạy đối với Thánh Thần còn làm cho chúng ta đón nhận được những ân huệ khác của Ngài, đặc biệt là ơn can đảm và biện biệt. Hai ân huệ này là những nét cốt yếu của Linh đạo Truyền giáo.

Trường hợp của các Tông đồ là một điển hình: trong sứ vụ công khai của Đức Giêsu, dù đã yêu Chúa nồng nàn với một tấm lòng quảng đại, dù đã được Chúa huấn luyện trong nhiều năm, các Tông đồ vẫn tỏ ra là những con người tối trí và chậm hiểu. Nhiều lần Chúa giảng dạy mà các ngài chẳng hiểu gì hết, nhất là khiếp sợ theo Chúa trên đường khổ nạn. Biến cố thập giá chiều Thứ Sáu Tuần Thánh đã làm tiêu tan niềm tin và hy vọng của các ngài vào Đức Giêsu. Chúa Thánh Thần đã biến đổi các Tông đồ trở nên những chứng nhân can đảm cho Đức Giêsu và những người loan báo cách rõ ràng lời Ngài. Chính Thánh Thần đã hướng dẫn các ngài trên những nẻo đường gian khổ và mới mẻ của sứ mạng truyền giáo.

Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh về vai trò của Chúa Thánh Thần trong công cuộc loan báo Tin Mừng khi đọc lại những ngày đầu của Giáo Hội sơ khai:

“Sẽ không bao giờ có thể Phúc Âm hoá được nếu không có tác động của Chúa Thánh Thần…

[…]Thật ra, chỉ sau khi Chúa Thánh Thần đến, ngày Hiện Xuống, các Tông đồ mới lênđường đi đến khắp các chân trời trên thế giới để khởi sự công cuộc Phúc Âm hoá của Giáo Hội, và Thánh Phêrô giải thích biến cố như đã thực hiện của lời Tiên tri Giôel: “Ta sẽ đổ Thần Khí Ta” (Cv 2,17). Thánh Phêrô được đầy Thánh Thần để nói với dân chúng về Đức Giêsu Con Thiên Chúa (x. Cv 4,8). Thánh Phaolô, cũng thế,“được đầy Thánh Thần” (Cv 9,17) trước khi hiến thân cho sứ mệnh tông đồ; Thánh Stêphanô cũng vậy, khi được chọn để làm phó tế và sau đó đã đổ máu làm chứng (x. Cv 6,5.10; 7,55). Thần Khí khiến Phêrô, Phaolô hay Nhóm Mười Hai lên tiếng và soi sáng cho họ những lời lẽ phải nói, thì cũng ngự xuống “trên tất cả những ngườiđang nghe Lời Thiên Chúa” (x. Cv 10,44). Chính nhờ Chúa Thánh Thần nâng đỡ mà Giáo Hội tăng tiến (x. Cv 9,31). Ngài là linh hồn của Giáo Hội này. Chính Ngài giải thích cho tín hữu hiểu ý nghĩa thâm sâu của lời Đức Giêsu giảng dạy và mầu nhiệm con người của Đức Giêsu. Ngày nay cũng như vào buổi đầu của Giáo Hội, Ngài là Đấng hoạt động trong mỗi sứ giả Tin Mừng, nếu họ chịu thuộc về Ngài và để Ngài hướng dẫn mình, Ngài đặt nơi môi miệng họ những lời mà một mình họkhông thể tìm ra được, và đồng thời chuẩn bị cho tâm hồn người nghe biết cởi mở đón nhận Tin Mừng và Triều Đại được loan báo.

Có những kỹ thuật Phúc Âm hoá là điều tốt, nhưng những kỹ thuật hoàn hảo nhất vẫn không làm sao thay thế được tác động âm thầm của Thần Khí. Không có Ngài thì sứgiả Tin Mừng có sửa soạn hết sức tinh tế cũng chẳng làm được gì cả. Không có Ngài thì biện luận thuyết phục nhất cũng không ảnh hưởng gì được trên trí tuệcon người. Không có Ngài, những lược đồ xã hội học và tâm lý học được soạn thảo kỹ lưỡng nhất cũng chóng tỏ ra vô giá trị.

Chúng ta đang sống trong Giáo Hội những giờ phút đặc biệt của Thần Khí. Đâu đâu người ta cũng tìm biết Ngài hơn, đúng như Thánh Kinh mạc khải. Người ta sung sướng tự đặt dưới quyền lực Ngài. Người ta họp nhau quanh Ngài. Người ta muốn để Ngài hướng dẫn mình.

Vậy, nếu Thần Khí Thiên Chúa có một vị trí ưu việt trong toàn thể đời sống Giáo Hội, thì chính trong sứ mệnh Phúc Âm hoá của Giáo Hội là chỗ Ngài hoạt động hơn cả.Không phải tình cờ mà cuộc khởi đầu vĩ đại đi phúc âm hóa đã xảy ra vào sáng ngày Hiện Xuống, dưới hơi thổi của Thần Khí”.

Nhưvậy, chúng ta có thể nói rằng Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, là tác giả đầu tiên của việc đối thoại giữa Giáo Hội và tất cả các dân tộc, văn hoá và tôn giáo. Chính Ngài thúc đẩy mỗi người loan báo Tin Mừng, chính Ngài, từ chiều sâu ý thức, làm cho người ta đón nhận và hiểu Lời cứu độ, và chính Ngài liên tục gieo những hạt giống chân lý giữa các dân tộc, tôn giáo, văn hoá và triết học của họ. Nhờ Chúa Thánh Thần, vị Thầy Nội Tâm, gương mặt và giáo huấn của Chúa Kitô sẽ tỏ hiện lên trong lòng ngườiđ ón nhận và đặc biệt hơn trong chính cuộc đời và bản thân của nhà truyền giáo.

Ngày nay cũng như ngày xưa, công cuộc truyền giáo vẩn có nhiều khó khăn và phức tạp. Ngày nay cũng như ngày xưa, nó đòi hỏi lòng can đảm và ánh sáng của Thánh Thần. Chúng ta vẫn thường đang sống trong thảm kịch của các Kitô hữu tiên khởi khi họ thấy đám đông bất tín và thù nghịch “đang rập mưu đồ chống lại Đức Chúa và chống lại Đấng Người đã được xức dầu phong vương” (Cv 4,26). Cũng như ngày xưa, chúng ta phải cầu nguyện để Thiên Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm loan báo Tin Mừng, để bước đi trên những nẻo đường huyền nhiệm đầy bất ngờ của Thiên Chúa và để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn đến chân lý vẹn toàn (x. Ga 16,13).

II. SỐNG MẦU NHIỆM ĐỨC KITÔ “ĐƯỢC SAI ĐI”

Sống hiệp thông với Đức Kitô là một yếu tố căn bản của linh đạo truyền giáo. Người ta không thể hiểu cũng như không thể sống sứ mạng truyền giáo nếu không quy chiếu về Đức Kitô như Đấng được sai đi để loan báo Tin Mừng.

Thánh Phaolô đã nói về tâm tình của Đức Kitô, Đấng được Thiên Chúa sai đến trong bài thánh thi thời danh: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình nhưchính Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ là phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏvinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,5-8).

Trong bài thánh thi này, Thánh Phaolô chiêm ngưỡng và suy tư về Mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Các mầu nhiệm này được diễn tả như một sự hoàn toàn từ bỏ bản thân, dẫn Đức Giêsu đến việc sống hoàn toàn như con người và gắn bó với chương trình của Chúa Cha cho tới cùng. Đây là mầu nhiệm tự huỷ mang dấu ấn của tình yêu và diễn tả tình yêu.

Sứmạng truyền giáo cũng đi trên con đường này, một con đường cuối cùng dẫn tới chân thập giá. Sứ mạng này đòi hỏi nhà truyền giáo “từ bỏ chính mình và những gì mình có, để trở nên tất cả cho mọi người”. Sự từ bỏ được thể hiện qua nếp sống nghèo khó trong sự thanh thoát của nội tâm. Nếp sống này làm cho nhà truyền giáo được tự do để loan báo Tin Mừng, tự do để trở nên người anh em của tất cả mọi người mà ngài được sai đến để đem Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ cho họ. Đó là linh đạo truyền giáo mà Thánh Phaolô đã sống trên những nẻo đường truyền giáo và muốn chia sẻ lại cho chúng ta: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếuđể chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để được phân chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9,22-23).

Rõ ràng vì được sai đi, nhà truyền giáo cảm nghiệm được sự hiện diện đầy an ủi của Đức Kitô đang đồng hành với mình trong mọi giây phút của cuộc đời. “Đừng sợ! Cứnói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với con” (Cv 18,9-10).

III. YÊU MẾN GIÁO HỘI VÀ CON NGƯỜI NHƯCHÚA KITÔ ĐÃ YÊU MẾN

Linhđạo Truyền giáo còn được thể hiện bằng tình yêu của người tông đồ dành cho Giáo Hội và cho con người. Người có tinh thần truyền giáo sẽ chiêm ngắm Đức Giêsu, VịMục Tử Tốt Lành biết chiên của mình, tìm kiếm chiên và hy sinh mạng sống vì đàn chiên (x. Ga 10) mà bày tỏ tình yêu đối với các tâm hồn và đối với Giáo Hội.

Nhà truyền giáo được thúc bách nhờ “lòng nhiệt thành vì các linh hồn”, một khi được tình yêu của chính Đức Kitô soi chiếu, sẽ biết chú tâm, nhẹ nhàng, thương cảm,đón tiếp, có một con tim sẵn sàng và cởi mở, biết lưu tâm đến những vấn đề của người khác. Như Đức Giêsu, nhà truyền giáo tiên vàn là con người của tình thương. Để có thể loan báo cho mỗi người trong anh em mình rằng họ được Thiên Chúa yêu thương và họ có thể yêu thương Thiên Chúa thì nhà truyền giáo phải làm chứng về tình thương đối với mọi người bằng cách hy sinh mạng sống mình vì người khác. Nhà truyền giáo là “người anh em của tất cả” (frère universel), ngài mang trong mình tinh thần của Giáo Hội, sự cởi mở và quan tâm của Giáo Hộiđối với mọi dân tộc và toàn thể nhân loại, đặc biệt đối với những người bé nhỏnhất và nghèo khổ nhất. Ngài phải vượt qua mọi ranh giới và khác biệt về chủng tộc, giai cấp xã hội hay ý thức hệ. Ngài là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa trong thế giới, nghĩa là một tình yêu không loại trừ ai cũng như không thiên vịngười nào.

Trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng, Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh rằng thời đại hôm nay chờ đợi những nhà truyền giáo trung thực. Sự trung thực được bày tỏ nơi chính bản thân và trong nếp sống Tin Mừng của nhà truyền giáo:

“Ngày nay, người ta thường hay lặp đi lặp lại rằng: thế kỷ này khao khát sự trung thực. Nhất là khi nói tới giới trẻ, người ta quả quyết rằng họ ghê tởm những gì là giả tạo, giả mạo và tìm kiếm chân lý và sự trong sáng trên tất cả.

Chúng ta phải tỉnh táo trước những “dấu chỉ thời đại” ấy. Âm thầm hay lớn tiếng, thiên hạ luôn luôn vặn hỏi chúng ta: Các người có thực sự tin điều các người loan báo không? Các người có sống điều các người tin không? Các người có rao giảng thực sự điều các người sống không? Hơn bao giờ hết, làm chứng bằng đời sống đã trở thành một điều kiện thiết yếu để việc rao giảng có hiệu quả thâm sâu. Bằng ngả này, chúng ta lại chịu trách nhiệm, đến một mức độ nào đó, về bước tiến của Tin Mừng mà chúng ta công bố.

Ở đầu bài suy niệm này, Chúng tôi đã tự hỏi: “Mười năm sau khi Công Đồng kết thúc, Giáo Hội hiện như thế nào?”. Giáo Hội phải chăng đã cắm neo giữa lòng thếgiới và phải chăng tuy vậy vẫn khá tự do và độc lập để lên tiếng nói với thế giới? Giáo Hội có chứng tỏ mình liên đới với loài người và có đồng thời làm chứng cho sự Tuyệt Đối của Thiên Chúa không? Giáo Hội có nồng nhiệt hơn trong việc chiêm niệm và thờ phượng, mà cũng nhiệt thành hơn trong công việc truyền giáo, bác ái, giải phóng không? Giáo Hội phải chăng đang dấn thân hơn mãi vào những nỗ lực nhằm tái lập sự hiệp nhất hoàn toàn giữa các Kitô hữu, sự hiệp nhất vốn cần để việc làm chứng thêm hiệu lực “ngõ hầu thế giới tin”. Chúng ta tất cả đều có trách nhiệm về những câu trả lời mà người ta có thể đem lại cho các câu hỏi trên”.

Công cuộc truyền giáo giả thiết nhà truyền giáo có một lòng thương yêu ngày càng lớn hơn mãi đối với anh chị em mà mình được sai đến để nói với họ về Thiên Chúa Tình Yêu, về Tin Mừng cứu độ. Thánh Phaolô, sứ giả Tin Mừng mẫu mực đã viết cho tin hữu Thessa lônica lời sau đây là một chương trình cho tất cả chúng ta:“Chúng tôi đã thương yêu anh em thắm thiết đến nỗi muốn giao phó cho anh em không những Tin Mừng của Thiên Chúa mà còn chính mạng sống chúng tôi nữa, bởi chưng anh em đã trở nên chí thân chí thiết với chúng tôi” (1 Tx 2,8; x. Pl 1,8).

Tình thương yêu mà Thánh Phaolô biểu lộ ở đây rõ ràng là tình thương yêu của một người cha, và còn hơn nữa, của một người mẹ (x. 1 Tx 2,7-11; 1 Cr 4,15; Gl 4,19). Chắc chắn, Thiên Chúa mong thấy tình thương yêu như thế ở mỗi người rao giảng Tin Mừng.

Chúng ta sống trên lục địa Á châu, một lục địa mà đại đa số là người nghèo, cho nên, ta không ngạc nhiên gì khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhấn mạnh đến việc phục vụ người nghèo qua việc đề cao Mẹ Têrêxa Calcutta trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu: “Mẹ là hình ảnh của sự phục vụmạng sống mà Giáo Hội đang dâng hiến tại Á châu, can đảm đi ngược lại nhiều quyền lực đen tối đang hoành hành trong xã hội”. Ngài suy nghĩ rằng trong bối cảnh của Á Châu với đông dân nghèo và bị áp bức thì ơn gọi đặc thù của Giáo Hội tại Á châu là bày tỏ cách riêng trong việc phục vụ đầy tình yêu đối với các người nghèo và người cô thế cô thân.

Người ta đễ tin hơn tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính những Kitô hữu sống đơn sơ,theo gương Đức Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống, đức tin sâu xa và tình yêu không giả dối đối với mọi người, nhất là người nghèo và người bị loại trừ, đó là những dấu chỉ Tin Mừng trong hành động.

Tình thương yêu nơi nhà truyền giáo không chỉ được diễn tả qua hình ảnh người bạn, người cha, người mẹ mà còn qua nhiều dấu chỉ khác nữa được Đức Phaolô VI nhắc đến trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng:

“Một dấu chỉ của tình thương yêu là mối quan tâm cho người khác chân lý và đưa vào sự hiệp nhất. Một dấu chỉ nữa là hy sinh trọn vẹn và dứt khoát cho việc loan báo Đức Giêsu Kitô. Chúng tôi xin kể thêm vài dấu chỉ khác của tình thương yêu kia.

Trước tiên là sự tôn trọng hoàn cảnh tôn giáo và tinh thần của những con người đangđược Phúc Âm hoá. Tôn trọng nhịp điệu riêng của họ, không thúc ép quá đáng. Tôn trọng lương tâm và những xác tín của họ, không can thiệp thô bạo.

Một dấu chỉ khác của tình thương yêu kia là biết lo tránh làm tổn thương người khác, nhất là khi họ còn yếu đức tin (x. 1 Cr 8,9-13) bằng những quả quyết có thể là sáng sủa đối với những người đã thông thạo, nhưng đối với các tín hữu thì lại có thể là nguồn dao động và cớ vấp phạm, như một vết thương trong tâm hồn.

Một dấu chỉ nữa của tình thương yêu là biết cố gắng truyền đạt cho các Kitô hữu, không phải những ngờ vực và những điều mập mờ phát sinh từ một sự học rộng mà không tới nơi tới chốn, nhưng là những điều chắc chắn vững vàng vì được neo vào Lời Thiên Chúa. Các tín hữu cần những điều vững chắc ấy cho đời sống Kitô giáo của họ; họ có quyền được những điều chắc chắn ấy, với tư cách là con cái Thiên Chúa phó thác mình hoàn toàn cho những đòi hỏi của tình thương yêu, trong tay Ngài”.

Cuối cùng, như Đức Kitô, “đã yêu thương Giáo Hội và hiến mình vì Giáo Hội” (Ep 5,25), nhà truyền giáo phải yêu mến Giáo Hội. Tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo Hội, một tình yêu đến nỗi trao ban mạng sống, sẽ là tấm gương soi và điểm quy chiếu cho nhà truyền giáo. Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh rằng chỉ với một tình yêu sâu xa dành cho Giáo Hội mới có thể nâng đỡ lòng nhiệt thành của nhà truyền giáo, như Thánh Phaolô nói về nỗi ray rứt hằng ngày của ngài là “mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh” (2 Cr 11,28).

Đối với mỗi nhà truyền giáo, lòng trung thành với Chúa Kitô không thể tách rời khỏi lòng trung thành đối với Giáo Hội, bởi vì “có một mối liên hệ sâu xa giữa Đức Kitô, Giáo Hội và việc loan báo Tin Mừng. Trong “thời của Giáo Hội” này, chính Giáo Hội có bổn phận Phúc Âm hoá. Bổn phận không thể hoàn tất mà không có Giáo Hội, càng không thể hoàn tất nếu chống lại Giáo Hội”.

IV. NHÀ TRUYỀN GIÁO ĐÍCH THỰC LÀ MỘT VỊ THÁNH

Lời mời gọi truyền giáo tự bản chất phát xuất từ lời mời gọi nên thánh. Nhà truyền giáo chỉ thực sự là nhà truyền giáo khi ngài dấn thân trên con đường thánh thiện: “Sự thánh thiện là nền tảng cốt lõi và điều kiện không thể thay thế được để chu toàn sứ mạng cứu rỗi của Giáo Hội”.

Ơn gọi phổ quát hướng tới việc nên thánh liên hệ mật thiết với ơn gọi phổ quát hướng tới sứ mạng truyền giáo, bởi vì mỗi người tín hữu được mời gọi nên thánh và truyền giáo. Linh đạo truyền giáo là con đường dẫn tới sự thánh thiện.

Sức năng động mới hướng tới muôn dân (Ad Gentes) đòi hỏi các nhà truyền giáo thánh thiện. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhắc đến điều này với một lòng xác tín:

“Thật không đủ khi chúng ta chỉ nghĩ tới việc đổi mới các phương pháp mục vụ cũng nhưlàm thế nào để tổ chức nhân sự và tài lực tốt hơn hay đào sâu nền tảng Kinh Thánh và thần học của đức tin. Phải gợi lên một sức năng động mới về sự thánh thiện nơi các nhà truyền giáo và trong từng cộng đoàn Kitô hữu, đặc biệt nơi những người cộng tác gần gũi nhất của các nhà truyền giáo.

Chúng ta hãy nhớ lại sức năng động truyền giáo nơi các cộng đoàn tín hữu sơ khai. Mặc dù lúc bấy giớ còn thiếu phương tiện di chuyển và truyền thông, nhưng việc loan báo Tin Mừng đã sớm đi đến mọi miền thế giới. Và cho dù đó là một tôn giáo của một Người đã chết trên thập giá, “một cớ vấp phạm đối với người Do Thái và sự điên rồ đối với dân ngoại” (1 Cr 1,23). Tự nền tảng của sức năng động truyền giáo này, ta thấy có sự thánh thiện của các cá nhân và của các cộng đoàn tín hữu sơ khai”.

Trong mọi trường hợp, rõ ràng là không thể có sự rao giảng Tin Mừng đích thực, nếu người Kitô hữu không sống chứng tá phù hợp với sứ vụ rao giảng: “Hình thức chứng tá thứ nhất là chính đời sống của vị thừa sai, của gia đình Kitô hữu và của cộng đồng Giáo Hội, một cộng đồng bày tỏ một nếp sống mới… Mỗi người trong Giáo Hội, khi cố gắng bắt chước Vị Thầy Thần Linh, thì có thể và phải làm chứng theo kiểu này; trong nhiều trường hợp, đó là phương cách duy nhất có thể được,để trở thành nhà truyền giáo”.

Nhà truyền giáo phải là một nhà “chiêm niệm trong hành động”. Khi tiếp xúc với các vị đại diện của các truyền thống thiêng liêng ngoài Kitô giáo, nhất là của Á châu,Đức Thánh Cha xác tín rằng tương lai của việc truyền giáo tuỳ thuộc phần lớn vào sự thánh thiện. Nhà truyền giáo, nếu không phải là nhà chiêm niệm thì không thể loan báo Chúa Kitô một cách khả tín được. Điều này chắc chắn đúng trong bối cảnh Á châu, nơi mà dân chúng được thuyết phục do đời sống thánh thiện hơn là do luận chứng tri thức. Như thế, để là chứng nhân cho kinh nghiệm về Thiên Chúa, nhà truyền giáo phải có kinh nghiệm về Thiên Chúa, “Điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng… về Lời hằng sống… chúng tôi đã loan báo” (1 Ga 1,1-3).

Đức Thánh Cha chia sẻ với các Giáo Hội tại Á châu rằng trong bối cảnh của Á châu, quê hương của các tôn giáo lớn, nơi mà các cá nhân cũng như toàn dân khao khát cái thiêng thánh, Giáo Hội được kêu gọi trở nên một Giáo Hội cầu nguyện. Tất cả các Kitô hữu cần một tu đức truyền giáo thực sự gồm có cầu nguyện và chiêm niệm.

Đức Thánh Cha còn ghi nhận rằng các nghị phụ Thượng Hội đồng Giám mục Á châu đã nhấn mạnh nhiều đến chỗ đứng của chiêm niệm trong công cuộc truyền giáo:

“Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin Mừng của chúng ta”.

Sự thánh thiện nơi bản thân nhà truyền giáo được nhìn thấy trong nếp sống của Tám Mối Phúc. Nhà truyền giáo là con người của Tám Mối Phúc. Trước khi sai các Tôngđồ đi rao giảng, Đức Giêsu đã huấn luyện Nhóm Mười Hai bằng cách cho họ thấy những con đường của truyền giáo: khó nghèo, hiền lành, chấp nhận đau khổ và những bách hại, khao khát sự công chính và hoà bình, bác ái, hay nói khác đi là con đường Tám Mối Phúc (x. Mt 5,1-12). Trong khi sống Tám Mối Phúc, nhà truyền giáo có kinh nghiệm và cho thấy một cách cụ thể rằng Nước Thiên Chúa đã đến và chính bản thân ngài đã đón nhận Nước ấy.

Sự thánh thiện không chỉ là lời mời gọi của Chúa, nhưng nơi bản thân của nhà truyền giáo, nó còn là sự chờ đợi của thế giới hôm nay, như Đức Phaolô VI nhận định:

“Thếgiới tuy có vô vàn dấu hiệu từ khước Thiên Chúa, nhưng một cách nghịch thường vẫn tìm kiếm Ngài bằng những đường nẻo bất ngờ và vẫn xót xa cảm thấy cần đến Ngài, thế giới ấy đòi có những sứ giả Tin Mừng nói về một Thiên Chúa mà họ biết và gần gũi như thể họ đã từng thấy Đấng không thể thấy (x. Dt 11,27). Thế giớiđòi hỏi và chờ đợi ở chúng ta đời sống giản dị, tinh thần cầu nguyện, lòng yêu thương đối với mọi người nhất là đối với những kẻ bé mọn và nghèo khó, đức vâng phục và khiêm tốn, sự siêu thoát và từ bỏ chính mình và mọi sự. Không có dấu hiệu về sự thánh thiện như thế, lời chúng ta nói sẽ khó đi vào lòng của con người thời nay. Nó có thể thành vô ích và vô hiệu”.

Một trong những nét đặc sắc của cuộc đời nhà truyền giáo là niềm vui nội tâm phát xuất từ đức tin. Trong một thế giới đầy lo âu và bị áp lực của trăm ngàn vấnđề, một thế giới dễ làm cho con người bi quan, thì người loan báo Tin Mừng phải là người đã tìm thấy nơi Đức Kitô nguồn hy vọng đích thực.

Đức Phaolô VI nhận xét rằng công cuộc truyền giáo trong thời đại chúng ta gặp nhiều trở ngại bởi vì sự thiếu nhiệt tình và niềm vui nơi bản thân người tín hữu. Nó càng trầm trọng bởi lẽ nó phát xuất từ bên trong; nó biểu lộ trong sự mệt mỏi và chán nản, sự làm lấy lệ và hờ hững. Đức Thánh Cha khuyến khích tất cả những người có nhiệm Phúc Âm hoá với tư cách nào và ở cấp bậc nào cũng vậy, hãy nuôi dưỡng nhiệt tình cho tâm thần mình (x. Rm 12,11).

“Chúng ta hãy giữ cho tinh thần được nhiệt thành. Chúng ta hãy giữ niềm vui dịu dàng và khích lệ trong công việc Phúc Âm hoá, ngay cả khi phải gieo trong nước mắt.Ước gì đó là một nhiệt tình mà không ai và không gì có thể dập tắt được nơi chúng ta, cũng như nơi Thánh Gioan Tẩy Giả, nơi Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, nơi các Thánh Tông đồ khác, nơi vô vàn sứ giả Tin Mừng đáng khâm phục trong suốt cả lịch sử Giáo Hội. Ước gì đó là niềm vui lớn lao cho những cuộc đời của chúng ta đã được hiến dâng. Và ước gì thế giới thời đại chúng ta, đang tìm kiếm, khi thì trong lo âu, khi thì trong hy vọng, có thể nhận được Tin Mừng, không phải từ những sứ giả Tin Mừng buồn rầu và chán nản, nôn nóng hay bứt rứt, nhưng là từ những thừa tác viên của Tin Mừng có đời sống toả ấm nhiệt tình, đã nhận sẵn niềm vui của Đức Kitô trong bản thân mình và chấp nhận đánh đổi mạng sống mình lấy việc Triều Đại được loan báo và Giáo Hội được đưa vào giữa lòng thế giới”.

V. XÂY DỰNG HIỆP NHẤT

Đây là mối ưu tư đặc biệt của Đức Phaolô VI, vị Giáo hoàng của đại kết và đối thoại. Mối ưu tư này được nói lên một cách mạnh mẽ trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng:

“Sức mạnh của việc Phúc Âm hoá sẽ bớt đi nhiều nếu những người loan báo Tin Mừng lại chia rẽ nhau bằng đủ thứ gãy vỡ. Phải chăng đó là một trong những vướng víu lớn nhất cho việc Phúc Âm hoá ngày nay? Thật vậy, nếu Tin Mừng mà chúng ta công bố lại cho thấy bị xâu xé bởi những cãi cọ về giáo thuyết, những phân cực ý thức hệ hay những kết án lẫn nhau giữa các Kitô hữu, tuỳ theo những cách họ nhìn khác nhau về Đức Kitô và về Giáo Hội, và ngay cả vì những cách họ quan niệm khác nhau về xã hội và các thể chế nhân loại, thì làm sao những người được chúng ta rao giảng lại khỏi bị dao động, lạc hướng nếu không nói là bị vấp phạm?

Di chúc thiêng liêng của Chúa nói với chúng ta rằng sự hiệp nhất giữa các môn đồcủa Người không phải chỉ là bằng chứng chúng ta thuộc về Người mà còn là bằng chứng Người do Chúa Cha sai đến, là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của chính Đức Kitô. Là những sứ giả Tin Mừng, chúng ta cần hiến cho các tín hữu của Đức Kitô, không phải hình ảnh những con người chia lìa nhau vì những tranh chấp không chút xây dựng, nhưng là hình ảnh những con người chín chắn trong đức tin, có khả năng gặp gỡ nhau bên trên những căng thẳng thực tế, nhờviệc cùng nhau tìm kiếm chân lý một cách chân thành và vô vị lợi. Phải, số phận công cuộc Phúc Âm hoá chắc chắn được gắn liền với việc Giáo Hội làm chứng cho sự hiệp nhất. Đó là một nguồn trách nhiệm mà cũng là một nguồn khích lệ”.

Nhưvậy, nhà truyền giáo là sứ giả của hoà bình và người thợ xây dựng sự hiệp nhất và đối thoại.

VI. NƠI TRƯỜNG HỌC CỦA ĐỨC MARIA, NHÀ TRUYỀN GIÁO ĐẦU TIÊN

Trong thông điệp đầu tiên Redemptor Hominis (Đấng Cứu Chuộc con người), Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết rằng chỉ trong một bầu khí cầu nguyện sốt sắng mới có thể “đón nhận Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và nhờ đó trở nên những nhân chứng của Đức Kitô cho đến tận cùng trái đất, giống như những người ra khỏi phòng Tiệc Ly tại Giêrusalem vào ngày lễ Ngũ Tuần”.

Khi bước vào năm thứ 25 sứ vụ giáo hoàng, với Tông thư Rosarium Virginis Mariae (Kinh Mân Côi của Trinh Nữ Maria), Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã công bố một Năm đặc biệt, gần như một sự tiếp nối lý tưởng của Năm Thánh, dành cho việc tái khám phá kinh Mân Côi, là kinh nguyện rất thân thiết với truyền thống Kitô giáo; một năm cần được sống dưới cái nhìn của Đấng, theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, nhờ lời “Xin Vâng”, đã làm cho việc cứu độ loài người có thể được thực hiện. Đồng thời ngài đặt Đức Trinh Nữ rất thánh làm Thầy dạy các tín hữu trong việc chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Kitô để từ đó ra đi truyền giáo trên đại dương bao la của thế giới.

Đức Thánh Cha ước mong rằng Năm Mân Côi sẽ tạo nên một cơ hội thuận lợi để các tín hữu trên mọi lục địa đào sâu ý nghĩa của ơn gọi Kitô hữu. Dưới mái trường củaĐức Trinh Nữ và noi gương ngài, mỗi cộng đoàn sẽ có thể làm nổi bật hơn chiều kích “chiêm niệm” và “truyền giáo” của mình. “Kinh Mân Côi cũng là một conđường loan báo và hiểu biết ngày một hơn, trong đó mầu nhiệm của Đức Kitô được trình bày đi, trình bày lại ở nhiều mức độ khác nhau của kinh nghiệm Kitô giáo.Đó là một trình bày mang tính cầu nguyện và chiêm ngưỡng, có khả năng đào tạo người Kitô hữu theo trái tim của Đức Kitô… Kinh Mân Côi vẫn giữ được sức mạnh của nó và tiếp tục là một tài nguyên mục vụ có giá trị tố đẹp cho mọi người loan báo Tin Mừng”.

Đức Thánh Cha chia sẻ với Giáo Hội rằng sự tin tưởng chạy đến cùng Đức Maria, qua việc đọc kinh Mân Côi hằng ngày và việc suy niệm các mầu nhiệm đời sống Chúa Kitô, sẽ nhấn mạnh rằng sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội trước hết phải được nâng đỡ bằng việc cầu nguyện. Thái độ “lắng nghe” mà kinh Mân Côi gợi lên, đem người tín hữu lại gần Đức Maria, Đấng “hằng ghi nhớ mọi điều ấy và suy đi nghĩlại trong lòng” (Lc 2,19). Việc siêng năng suy niệm Lời Chúa luyện tập cho chúng ta sống hiệp thông sống động với Đức Giêsu. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đức Maria giúp chúng ta đạt được “sự dạn dĩ thanh thản” làm cho chúng ta có khả năng thông truyền cho người khác kinh nghiệâm về Đức Giêsu.

Dưới mái trường của Đức Maria, Giáo Hội chiêm ngưỡng dung nhan đầy lòng thương xót của Đức Giêsu nơi những người anh chị em, đặc biệt nơi những người nghèo khó và thiếu thốn. Với sự ân cần từ mẫu mà Mẹ đã tỏ ra ở tiệc cưới Cana (x. Ga 2,1-5),Đức Maria dạy nhà truyền giáo biết sống tế nhị, yêu thương và quan tâm đến những vấn đề của con người.

Hìnhảnh Đức Maria, nhà truyền giáo đầu tiên đã để cho Thánh Thần thúc đầy mà vội vã tiến bước (x. Lc 1,39-56) đem Chúa Giêsu trong cung lòng mình đến cho nhà Elizabeth mời gọi các sứ giả Tin Mừng không được để cho nhiệt tình tông đồ suy giảm đi, đặc biệt trong sứ vụ truyền giáo “đến với muôn dân” (Ad Gentes).

Vào buổi sáng ngày Hiện Xuống, ai cũng biết là Mẹ Maria đã có mặt với các Tông đồ,hiệp nhất “cùng một lòng trong lời cầu nguyện” (x. Cv 1,14) trong cộng đoàn tiên khởi được quy tụ sau khi Chúa lên trời, trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Đức Maria đã tham dự vào buổi khởi đầu công cuộc Phúc Âm hoá dưới tác động của Chúa Thánh Thần: ước gì Ngài là Ngôi Sao Sáng của công cuộc Phúc Âm hoá luôn được làm mới lại mãi mà Giáo Hội, thừa lệnh Chúa, phải xúc tiến và thực hiện, nhất là giữa thời buổi vừa khó khăn vừa đầy hy vọng này.

VII. KẾT LUẬN

Chúng ta vừa làm công việc tổng hợp một Linh đạo Truyền giáo được nói đến trong một số văn kiện của các Đức Giáo Hoàng. Chúng ta hy vọng rằng linh đạo truyền giáo sẽ làm cho lòng chúng ta bừng cháy lên nhiệt tình loan báo Tin Mừng.

Truyền giáo khởi sự bằng cuộc sống và con tim. Cuộc sống và con tim đòi hỏi các môn đệChúa Kitô sống có tấm lòng. Tấm lòng với mọi người và với Giáo Hội, một tấm lòng “dễ dạy” đối với Chúa Thánh Thần, một tấm lòng mới như của Đức Maria.


Lm. Ant Nguyễn Đức Khiết

SimonHoaDaLat.com
Exit mobile version