Kinh sách nguyện giỗ cầu hồn – Một di sản Đức tin Văn hoá

Riêng đối với bà con nhà đạo mình thì chuyện xử sự sao cho phải phép ấy, ngay từ buổi đầu, đã thành đạo, đã nên chuẩn mực và nề nếp căn cơ. Dù phần số có hoàn cảnh túng quẫn ngặt nghèo đến đâu, cũng phải giữ ngọc gìn vàng, chẳng dám đơn sai. Bởi nó vừa là cái lẽ ở đời trong tình làng nghĩa xóm, trong truyền thống đạo lý của một đất nước, một dân tộc “vừa lớn vừa đẹp, hiền hòa, dễ thương… Một miền đất coi như đã được dọn sẵn để vun trồng đức tin”. (1) Lại vừa là một trong những điều răn yêu thương con cái một nhà của đạo Đức Chúa Trời. Không lạ gì, ngay từ buổi hừng đông đón nhận Tin Mừng ấy (1632), người lương dân ở kinh kỳ Thăng Long đã không tiếc lời, gọi bổn đạo là “những người theo đạo yêu nhau”. (2)

Nói về phép tắc, lễ nghi, sinh hoạt, hội hè, đám xá và đặc biệt mảng kinh sách dành riêng cho hậu sự – từ hấp hối lâm chung đến qua đời và tống táng ma chay – đã là cả một chuyện dài nhiều tập, bao la bát ngát, không biết cơ man nào mà kể.Chúa ôi, đã bảo là kinh nhà đạo, gạo nhà chùa mà lị. Thật là bất khả thuyết. Nào là đi thăm viếng, ủi an, thuốc thang, giúp đỡ, khuyến hối kẻo ra yếu nhân đức tin, ngã lòng trông cậy. Nào là ngâm nga, ca vãn (Tứ Mạt Ca, Tứ Chung); kinh nguyện (Thẩm Phán, Trợ Thiện Tử, Bảo Đàng, Vực Sâu, Cầu Hồn, Ăn Năn Tội) hoặc đọc sách thiêng liêng (Lâm Mạnh, Hối Tội, Gương Phúc Gương Tội, Thổi Loa, Ngẫm về thiên đàng địa ngục, Bốn sự sau cùng) tất thảy gọi là của ăn đàng để dọn mình chết lành. Ấy là chưa nói đến bao nhiêu việc phải làm và bấy nhiêu kinh phải luân phiên nhau mà đọc trong suốt mấy ngày tóc rối đầu tang của nhà hiếu. Thôi thì đủ cả mọi nhẽ mọi đàng, để tránh điều tiếng miệng đời luôn cưới trách ma chê. Nghĩ cũng đáng tội. Hèn chi các cụ nhà ta – Phan Kế Bính, Đào Duy Anh và Toan Ánh – mắng mỏ phê phán cho là thậm phải, đáng đời. (3)

Làng quê xứ đạo mình ngày xưa trong lũy tre xanh sao êm ả, thanh bình quá. Bởi thế,ông Văn Cao mới hứng lên mà viết:

“Làng tôi xanh xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban chiều
Tiếng chuông nhà thờ rung”.
(Làng Tôi, 1947)

2.
Để giữ trọn đạo hiếu sinh hiếu tử và đáp nghĩa đền ơn đối với những người đã khuất, hai bên lương giáo đều có những ngày lễ kính, tưởng niệm, thọ trai, sắm sanh cúng quả, khói hương, tảo mộ. Trong khi bên lương nhà Phật nhà chùa có lễ hội thanh minh trong tiết tháng Ba và rằm tháng 7 xá tội vong nhân thì bên đạo nhà Chúa nhà thờ lại dành ra cả một tháng trời (tháng 11 dương lịch) để lễ lạy, kinh hạt, giỗ chạp, lập công đền tội thay cho người quá cố. Mùa này, thời tiết khí hậu cả trong Nam ngoài Bắc thường đỏng đảnh mưa bão mù trời. Đường từ nhà thờ ra nghĩa trang, trẻ con người lớn xếp hàng một đi viếng mộ. Tối đến, nhà nhà xóm xóm lên đèn lên đuốc sáng trưng, chiếu trong chiếu ngoài ken cứng người đến đọc kinh nguyện giỗ, cầu hồn. Thường thường là kinh chiều hôm ban sáng, lần hạt Mân Côi và kinh vực sâu. Trọng thể và kiểu cách, văn vẻ hơn thì phải có lễ nhạc, ngâm nga mảng kinh văn đã thành bài bản có niêm luật chương khúc, đối đăng (Phú, Văn tế), có chữ nghĩa điển tích (Hán văn), có cung giọng, vần điệu, tiết nhịp bi tráng, thưa mau (lâm khốc, biệt hành, sa mạc, bồng mạc) và có cả xuất xứ ngọn nguồn hẳn hoi (Thánh Giáo Kinh Nguyện, Mục Lục Nhựt Khoá hoặc Toàn Niên Kinh Nguyện). Toàn bộ những pho sách kinh điển trên đây, nếu tôi không lầm thì đã được các thế hệ tiền bối chuyển dịch từ Exercitum Quotidianum – Sách Kinh Hằng Ngày bằng tiếng Latinh. Tất nhiên có bổ sung một số kinh tự soạn cho hợp với tâm thức, phong tục tập quán và thời vụ mùa màng của người Việt Nam. Xin trích dẫn ra đây vài trích đoạn:

Lạy Chúa khoan dung / xin mưa máu xuống / hồn nào còn vướng / mắc dấu vết chi.
Chúng tôi xin vì / công nghiệp máu Chúa / sẽ gội sẽ rửa / cho sạch phen này.
Xin Chúa ra tay / nhân từ cứu vớt / chúng tôi kẻ chết / ai nấy được nhờ…
(Kinh Cầu Hồn, Thánh Giáo Kinh Nguyện Hà Nội, Phát Diệm, 1929)

Nhớ ngày công phán / thúc dạ kinh hoàng…
Tôi xiêu lạc, khiến hư hồn ngọc
Chúa tìm tôi mỏi nhọc mình vàng
Vậy dám xin Chúa tôi mở lượng bao duông
Quá bội khôn lường / đổ máu châu báu
Đừng chấp kẻ phụ phàng
Tôi khóc lóc kêu van
Xin Giêsu tha thứ
(Kinh Lễ Các Đẳng, Mục Lục Nhựt Khoá, 1920)

Trời cao, đất rộng cực kỳ
Trong tay quyền phép tóm về kỷ cương
Cao xa Chúa ngự thiên đàng
Thấu nghe suốt hết trần gian mọi vùng
Khuyên răn thưởng phạt rất công
Lưới trời lồng lộng ai hòng trốn thâu
Chúng tôi cả dám khấu đầu
Hết lòng van thiết âu sầu kêu xin…


Kinh văn cầu khẩn một bài
Mọi người xin kết hợp lời, Amen.
(Cảm Tạ Niệm Từ Diễn Ca, Toàn Niên Kinh Nguyện, 1950)

3.
Như trên đã nói, mảng kinh sách nguyện giỗ – cầu hồn của nhà đạo mình rất phong phú về nội dung và đa dạng về hình thức. Có thể nói mà không sợ cường điệu rằng mảng kinh sách đặc thù này là một trong những đối tượng phải được tham khảo nghiêm túc, nếu người ta muốn nghiên cứu đầy đủ về đời sống đức tin cũng như đời sống văn hoá nghệ thuật của Công giáo Việt Nam trong dòng chảy văn hoá của dân tộc. Với trải nghiệm những năm tháng tra cứu, kiếm tìm, đãi cát tìm vàng, bản thân kẻ viết bài này đã hơn một lần không những cảm thấy choáng ngợp trước số lượng chồng chất của một tàng kinh các, mà còn thú vị đến ngạc nhiên khi ngộra nhiều thể loại, nhiều phong cách vận dụng chuyển tải, nhiều pha trộn cũ mới, vừa truyền thống vừa phá cách sáng tạo mang giá trị của một tác phẩm văn học nghệ thuật, từ lịch sử, truyện kể đến thi phú văn bài, từ hịch, chiếu, biểu, cáo đến vè, vãn, ca, ngâm, tế, điếu, văn sách, kinh nghĩa, chương khúc, trường thiên, từ tam tự, tứ tự, ngũ ngôn, cổ phong, tứ tuyệt, bát cú Đường luật trở vềnhững thể loại thuần tuý Việt Nam, như lục bát, song thất lục bát, lục ngôn thất ngôn hỗn hợp và hát nói… Tóm lại, trong thẳm sâu lòng đạo đức tin của lớp người trọng tuổi thì kinh sách từ các nhà in Công giáo cổ xưa như Nazareth (Hồng Kông), Kẻ Sở (Hà Nam), Kẻ Sặt (Hải Dương), Tân Định (Sài Gòn), Phú Nhai (Bùi Chu), Ninh Phú (Phát Diệm), Trung Hoà (Hà Nội), Qui Nhơn, Kontum chắc hẳn phải là một phần đời của mình. Dù đã và đang tàn phai quên lãng, nhưng cái vang cái bóng lung linh một thuở một thời ấy vẫn cứ là của nuôi linh hồn người ta. Chẳng thế mà ai kia đã mạnh miệng rằng “Cơm nuôi phần xác, Kinh nuôi phần hồn”.

Thực tế là đã có một thời chưa xa – khoảng những thập niên 1940-1950 của thế kỷtrước – nhà thờ xứ đạo làng quê ta vẫn cứ vang âm nhịp nhàng hai thứ ngôn ngữvà hai thứ giai điệu của kinh nguyện. Rất Bình ca Latinh Rôma mà cũng rất ngũ cung quốc ngữ Việt Nam!

Các thầy đọc tiếng Latinh
Các cô con gái thưa kinh dịu dàng.

Khi nói đến “đọc tiếng Latinh” và “thưa kinh dịu dàng” là nói đến cả một dặm dài hàng mấy trăm năm của Phụng vụ, của đời sống ca nguyện trong dân Chúa Việt Nam. Từ La Tinh sang tiếng Việt và từ Thánh nhạc Bình ca sang ca vãn nguyện ngắm. Một quá trình và hoá trình cộng sinh, tiếp biến đầy cam go, nhọc nhằn, nhưng thấm đẫm biết bao Ơn Chúa – tình người. Dặm dài ấy đã khởi đi theo bước đường truyền giáo từ thế kỷ XVI, XVII và còn tiếp diễn mãi về sau. (4)

Vẫn biết mảng kinh sách ấy, đến nay, chỉ còn là một lâu đài đóng kín, một thư mục cũ nát, một “số sót” rớt rơi trong cái phạm trù “lòng đạo dân gian” của những người ở chiếu dưới. Vẫn biết đấy chỉ là một số vận dụng sáng tạo hoặc mô phỏngđể thích nghi, để đáp ứng phần nào nhu cầu trong một thời điểm nhất định nào đó, cần phải được chắt lọc, chỉnh sửa và cập nhật sao cho đúng Phụng vụ, đồng thời theo kịp chuyển động và khả năng tiếp biến của đời sống ngôn ngữ dân tộc. Nhưng dù sao, ở một chừng mực nào đó, nó vẫn tồn tại khách quan như một đối tượng tham khảo – nghiên cứu về mặt giáo dục đức tin, về lịch sử truyền giáo cũng như về con đường hội nhập văn hoá. Bởi vì có đọc và phân tích kỹ từng câu chữ, từng đoạn mạch, từng dụng ý thác ngụ, từng kiểu cách biểu đạt diễn tả dung chứa trong mảng kinh sách ấy, ta mới cảm nhận được sự thông tuệ về tín lý, thần học và mới khẩu phục tâm phục ngón tài hoa thần tình về ngôn ngữ, về thi pháp của cha ông ta trong quá trình chuyển dịch từ Latinh, Bồ, Pháp ngữ sang Hán, Nôm, Quốc ngữ và biên soạn, trước tác mang tâm tình dân tộc. Nói khác đi, mảng kinh sách mà chúng ta yêu, chính là di sản đức tin – văn hoá được tích luỹ dung hợp từ tinh hoa của bao nhiêu thế hệ truyền đời. Nó xuất phát từ nhu cầu của đời sống ca nguyện mà trong đó có phần đóng góp to lớn của nhiều cá nhân, nhiều tập thể trí tuệ thông qua một số Công nghị, Hội đồng, thỉnh nguyện, đề xuất. Rõ ràng phải có một quyển sách Kinh cho toàn thể dân Chúa đã và đang là vấn đề cần thiết ngay từ bây giờ, dù đã muộn. (5)

Có người bảo đọc kinh như ve sầu kêu ra rả suốt mùa hè, chẳng ơn ích gì! Thà lặng thinh chiêm niệm còn hơn. Nhưng rồi, chính các bậc thánh nhân hiền giả đều phải nói ra thành lời, lời ấy là kinh, là tao phách, là khuôn vàng thước ngọc cho muôn đời sau. Lão Đam nói đến 5.000 từ trong Đạo Đức Kinh. Khổng Phu Tử giảng thuyết bằng Tứ Thư, Ngũ Kinh và Thích Ca Mâu Ni trong suốt 49 năm hoằng pháp, nguyên lời kinh Đại Bát Nhã, đã nói ròng rã tới 22 năm. Vẫn biết đến nay, giữa nhịp sống tốc độ ồ ạt của đô thị – công nghiệp hoá, hình như cái hạnh phúc được đọc kinh – nguyện ngắm theo lề thói và cung cách xưa đang nhạt dần, nhạt dần và biến mất rồi thì phải? Nhưng tôi vẫn thầm cảm ơn cha mẹ, những ông Trùm bà Quản đã gieo vào lòng bọn trẻ con nghèo khổ ở nhà quê chúng tôi một số vốn liếng về đức tin – văn hoá là Kinh sách – Nguyện ngắm. Nói thật lòng, cái gia tài, hương hoả ấy, tuy cũ kỹ chân quê, tuy tầm tầm hạn hẹp, nhưng đã nuôi sống, đã thổi chúng tôi lớn lên như lúa như khoai để học ăn học nói học gói học mở với đời. Có ca dao, tục ngữ, đồng dao, truyện Kiều mà cũng có kinh có sách, chẳng thua chị kém em. Một quá khứ nhọc nhằn, ai ơi. Nhiều khi buồn vẩn vơ. So với các thế hệ về sau và đặc biệt với lớp trẻ bây giờ, sao mình quê mùa lạc hậu đến thế…Bồi hồi nhớ câu hát đồng dao – bài học Giáo lý vỡ lòng – của mình ngày nảo ngày nào còn bé đùa chơi trong sân nhà thờ một đêm trăng sáng:

Thiên đàng, địa ngục đôi quê
Ai khôn thì về, ai dại thì xa
Đêm về, nhớ Chúa, nhớ cha
Đọc kinh, cầu nguyện kẻo sa linh hồn…

—————————
(1)Đắc Lộ, Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài, 1651.
(2) Gaspar d’Amaral (1592-1646), Thư gửi André Palmeiro, Macao, 31-12-1632.
(3)Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính, NXB. TP.HCM, 1990, tr. 37; Nếp Cũ của Toan Ánh, NXB. Trẻ, 1990, tr. 352; Việt Nam Văn hoá Sử cương của Đào Duy Anh, NXB. TP.HCM, 1992, tr. 215.
(4) L.E. Louvet, La Cochinchine religieuse, Paris, 1885, tr. 78.
(5)Hội Đồng Kinh – Nhóm Sửa Kinh họp tại Toà Giám mục Huế để “cùng nhau sửa kinh hôm mai cho trong ngoài nhứt thể”, ngày 28-7-1924. Các thành viên là 9 linh mụcđại diện toàn cõi Đông Dương (Việt Nam, Căm Bốt, Thái Lan và Penang) và đặc biệt, thành viên thứ 10 là Thầy Phó tế Giuse Maria Nguyễn Văn Thích (tức Linh mục– Nhà thơ Sảng Đình rất nổi tiếng sau này).


Gò Dầu, tháng 11-2011

Lê Đình Bảng
Exit mobile version