Ðiều răn (trong Cựu Ước)

dieu ran trong cuu uoc - Ðiều răn (trong Cựu Ước)

(CN XXXI TN – NĂM B  – Mc 12,28-34)

“Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu ?” (Mc 12,28).

Trong Cựu Ước Thiên Chúa đưa ra các điều răn cho dân Israel, cho thấy cả giá trị lẫn tầm quan trọng của chúng.

Lý do khiến Thiên Chúa đưa ra các điều răn là yêu cầu phải nên thánh: “các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh …” (Lv 11,44-45; x. Lv 19,2; 20,7-8.26; 21,8).

Các điều răn Chúa truyền cho Israel, như lời Người phán với ông Môsê: “Ta sẽ phán với ngươi tất cả mệnh lệnh, các thánh chỉ và quyết định mà ngươi sẽ dạy cho chúng. Ngõ hầu chúng đem ra thực hành trong Đất mà Ta ban cho chúng để chúng chiếm hữu …” (Đnl 5,31-33; x. Xh 16,23-24; 17,1; 25,22; 34,32; Ds 18,20; Đnl 15,11). Chúa truyền phải quảng đại và ưu ái kẻ nghèo: “Anh em hãy nhớ rằng mình đã làm nô lệ tại đất Ai Cập, và Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã giải thoát anh em” (Đnl 15,15; 24,17-18, 21-22; 2Sb 29,25-26; Nkm 8,1; 9,13-14).

Các điều răn Chúa truyền cho những cá nhân như: cho ông Ađam không được ăn “trái của cây cho biết điều thiện điều ác” (St 2,16-17), cho ông Noe đưa vào thuyền “từng đôi một thuộc mọi xác phàm” (St 7,16); cho ông Abraham “cắt bì cho Isaac, con ông lúc nó được tám ngày” (St 24,4); cho ông Aaron được ăn “phần còn lại của lễ phẩm” (Lv 6,9) “lên núi Ho và qua đời ở đó” (Ds 33,38); cho Bilơam chúc lành cho dân Israel (Ds 25,1.12); cho ông Giôsuê đứng đầu cai quản dân (Đnl 31,23) và dẫn dân vượt qua sông Giođan (Gs 4,16-17), cho vua Đavít tấn công và đánh bại quân Philitinh (2Sm 5,25); cho vua Salomôn “tuân giữ các mệnh lệnh” (1V 3,14), cho tiên tri Êlia (1V 18,36), Giêrêmia (Gr 1,7 26,2), Ezêkiel (Ed 37,9-10).

Các lệnh Chúa truyền cho cả các tác nhân không phải con người:

– Vũ trụ: “vì Người đã phán, và muôn loài xuất hiện. Người ra lệnh truyền, tất cả được dựng nên” (Tv 33,6-9; x. Tv 148,4-6).

– Các sinh vật: “Khi Ta để cho trời đóng lại, không cho mưa, khi ta truyền cho châu chấu phá hoại đất đai, khi Ta cho dịch tễ hoành hành trong dân Ta” (2Sb 7,13; x. G 39,27; Am 9,3; Gn 2,10).

– Các thụ tạo vô hồn: “Người dùng hơi nước tạo thành mây, và từ mây, Người làm cho chớp lóe. Mây lang thang đủ mọi chiều, theo đúng chương trình Người hoạch định” (G 37,11-12; x. Tv 78, 23-24; Is 5,6; Gr 31,35).

– Các thiên thần: “Bởi chúng Người cho các thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường” (Tv 91,11; 103,20).

– Gươm đao, biểu trưng phán xét của Chúa “Ôi, gươm của Đức Chúa, ngươi không được nghỉ ngơi mãi đến bao giờ ? …” (Gr 47,6-7; x. Am 9,4).

Các điều răn của các thủ lãnh dân Chúa, như của ông Môsê (Đnl 31,24-26), của ông Giôsuê (Gs 1,17-18), của tiên tri Êlia (1V 18,40), của tổng đốc Nêhêmia (Nkm 13,22).

Các điều lệnh do các vua ban hành:

– Trên dân Israel và Giuđa (1V 2,46; 1Sb 28,20-21; 2Sb 14,4).

– Trên các dân vô tín ngưỡng (St 12,20; Xh 1,22; Ed 4,3; Et 1,12.15; 2,8; 3,1.13; Đn 3,10-22; 5,29).

Các lệnh truyền của mẹ cha: “Này con, đừng quên lãng giáo huấn của thầy, huấn lệnh của thầy, lòng con lo giữ trọn” (Cn 3,1; x. Đnl 32,44-46; Cn 6,20; 7,1-2).

Bản chất các điều răn của Chúa: “Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời” (Tv 19,7-10; x. 1Sb 16,15; Tv 119,86.96; 15,1; 17,2).

Điều răn Chúa cần được mến chuộng: “Con vui thú với mệnh lệnh của Ngài và hết lòng yêu mến …” (Tv 119,47-48; x. 1V 8,61; 1Sb 29,19; G 23,12; Tv 112,1; 119,16.35; 127-128.131.143).

Điều răn Chúa cần được tuân giữ:

– Chúa đòi phải tuân phục (Gv 12,13; x. Đnl 4,2; 26,16-18; Gs 22,5; Gr 7,22-23).

– Những cảnh báo và những điển hình vì bất tuân (2V 17,13-14; 1Sm 13,13-14; 1V 11,10-11; Ac 1,18; Đn 9,46)

– Những hiệu quả do biết tuân phục (St 26,4-5; Xh 15,26; Đnl 4,1; 6,1-3 8,1; 1V 11,38).

– Những hệ lụy do bất tuân phục (Đnl 11,26-28; 30,1-3; 1Sm 12,14-15; 1V 9,4-9; Nkm 1,7-9; Gr 22,4-5).n

LM. PHAOLÔ PHẠM QUỐC TÚY – GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG

Exit mobile version