Tin Mừng hôm nay thuộc phần IV của Thánh sử Matthêu với chủ đề Mầu nhiệm Nước Trời. Chúa Giêsu đã rao giảng Mầu Nhiệm ấy bằng chính lời nói và hành động của Ngài. Với các phép lạ xua trừ ma quỉ, chữa lành bệnh tật…, Ngài minh chứng Nước Trời đã hiện diện, nhưng người Do Thái một mực cứng lòng. Họ phủ nhận quyền lực Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa, cho đó là do tướng quỉ giúp sức. Cứ sau một phép lạ chữa lành là người Do Thái đều bàn kế lập mưu giết Chúa Giêsu. Hôm nay, sự ghen tức và độc ác đã lên đến cao điểm, đến độ họ đòi Chúa Giêsu “ trình diễn” một dấu lạ để minh chứng : Ngài đến từ Thiên Chúa. Những người biệt phái không nhận Chúa Giêsu là Đấng Messia vì họ cố chấp, nhưng họ viện cớ là vì họ không thấy dấu lạ. Thực ra Chúa Giêsu đã cho họ biết bao nhiêu dấu lạ mà họ có chịu thấy đâu. Vì thế Ngài nói chẳng cần cho họ dấu lạ nào khác ngoài dấu lạ Giôna, tức là ám chỉ Ngài sẽ chết và sống lại. Nhưng Ngài cũng biết là dấu lạ đó cũng chẳng thể mở mắt họ nổi, cho nên Chúa Giêsu bảo đến ngày phán xét tội của họ sẽ rất nặng. Các kinh sư và người pharisiêu yêu cầu Chúa Giêsu “Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ” (c. 38). Khi họ thốt lên những lời này, không phải để củng có niềm tin yếu kém của họ nhưng chỉ là một sự thách thức. Vô Tình, họ đã giẫm phải bước của cha ông họ xưa kia, khi thách thức Thiên Chúa trong sa mạc, trên đường về Đất hứa. Đó cũng là âm nưu của ma quỉ đã thách thức Chúa Giêsu trong sa mạc trước khi Ngài ra đi loan báo Tin Mừng. Và Chúa Giêsu đáp : “ Thế hệ gian ác và ngoại tình này”. Ngài đã nhìn rõ chân tướng của họ đầy gian ác khi lập mưu tính kế hại người anh em đồng loại chỉ vì ghen tỵ. Họ đầy sự “ ngoại tình” vì không tin tưởng vào quyền năng và ơn cứu độ của Thiên Chúa đã đến trần gian qua Con Người Giêsu. Đối lại thái độ đòi hỏi dấu lạ nhãn tiền của họ, Chúa Giêsu buộc họ phải có lòng tin. Nhưng họ vẫn cứng lòng. Vì thế, Chúa Giêsu nói : họ chỉ có thể thấy “ dấu lạ Giôna” mà thôi. Chúa Giêsu cũng đã tiên báo : như Giôna trong bụng cá ba ngày, Con Người sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy ( x.c. 40). Ở đây, Ngài so sánh mình với ngôn sứ Giôna. Một ngôn sứ chỉ rao giảng Lời Chúa mà dân thành Ninivê hối cải, không cần phép lạ hay dấu chỉ nào, vì họ tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Thật thế, Chúa Giêsu là vị ngôn sứ vĩ đại mà Thiên Chúa đã sai đến cho dân Người, dân Israel. Ninivê ăn năn trở lại vì họ nhận ra Giôna là ngôn sứ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu như muốn mượn hình ảnh tiên tri Giôna để loan báo về chính cái chết của Ngài. Cũng như Giôna đã vâng phục Thiên Chúa đến rao giảng sự sám hối cho dân thành Ninivê, thì Chúa Giêsu cũng vâng phục Chúa Cha để sống kiếp con người và trở thành dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa cho con người. Qua hình ảnh Giôna để loan báo sự vâng phục cho đến chết của Ngài, Chúa Giêsu muốn nói đến con đường mạc khải của Thiên Chúa, đó là con đường tình yêu. Ngài đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, nghĩa là có tự do và biết yêu thương, cho nên Thiên Chúa đã chọn con đường yêu thương để đến với con người. Ngài đã hóa thân làm người, sống trọn vẹn kiếp người, và cuối cùng chịu chết treo trên Thập giá, tất cả để trở thành lời mời gọi đối thoại yêu thương. “Chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ”. Nhiều lần chúng ta cũng mong Chúa làm phép lạ tỏ tường. Chẳng hạn hiện ra trước mặt nhiều người. Chúng ta nghĩ nếu có những dấu lạ ấy thì mọi người đều tin thờ Chúa. Thực ra Chúa thừa sức làm những phép lạ như thế. Nhưng những dấu lạ như thế sẽ là một áp lực, một bó buộc khiến người ta phải tin thờ Ngài, không cách nào khác được. Và như thế con người không còn được tự do, Chúa không phải là một Thiên Chúa yêu thương mời gọi nữa. Chúa ít khi làm dấu lạ, nhưng thích ban dấu chỉ. Những dấu chỉ kín đáo, đơn sơ là những tiếng mời gọi nhẹ nhàng và yêu thương. Và những dấu chỉ như thế có rất nhiều. Chỉ cần ta biết mở mắt mở lòng ra là có thể thấy ngay. Con Người sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm, ý Chúa Giêsu tiên báo về sự Phục Sinh của Ngài sau cái chết trên Thập giá. Phục Sinhlà cao đỉnh và là dấu lạ vĩ đại nhất khẳng định thiên tính của Chúa Giêsu: Người chính là Thiên Chúa và đến từ Thiên Chúa. Ngài là Chúa của kẻ sống và kẻ chết. Ngài chiến thắng và thống trị tội lỗi, ma quỉ và sự chết. Dấu lạ về sự Phục Sinh của Ngài do chính Ngài tiên báo và hành động. Ngài vừa là người rao giảng và cũng là người làm chứng về sự kiện này. Vậy mà người Do Thái vẫn cứng lòng. Con người chúng ta vốn có tính hiếu kỳ: Nghe nơi đâu có chuyện kỳ lạ, thì lập tức đổ xô tìm đến. Do đó, dễ có nguy cơ coi phụ là chính, thấy giả tưởng thật. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại có vẻ không chuộng đánh bóng mình qua những phép lạ huy hoàng, hoành tráng. Cụ thể, khi làm phép lạ biến nước thành rượu, hóa bánh ra nhiều, Chúa cũng làm như một việc bình thường, tự nhiên đến mức không ngờ! Thậm chí dấu lạ lớn nhất là ban ơn cứu độ cho nhân loại vậy mà Chúa cũng khởi đầu rất bằng cách sinh ra như một bé thơ và chịu chết như một tử tội. Dấu lạ đích thực chính là Chúa Giêsu, Đấng đã sinh ra làm người và đã chết, đã sống lại vì yêu thương ta. Mãi mãi Thiên Chúa chỉ đến với con người qua dấu chỉ của tình yêu. Người Kitô hữu luôn được mời gọi để nhận ra những dấu chỉ yêu thương ấy trong cuộc sống của mình, không những qua những chúc lành và may mắn, mà còn qua những mất mát, khổ đau thua thiệt nữa. Huệ Minh
Thật vậy, nhận ra những dấu chỉ yêu thương của Thiên Chúa trong cuộc sống, người Kitô hữu cũng được mời gọi để trở thành những dấu chỉ yêu thương của Ngài cho mọi người chung quanh. Trở thành dấu chỉ yêu thương có nghĩa là chấp nhận sống vâng phục và vâng phục cho đến chết như Chúa Giêsu. Trở thành dấu chỉ yêu thương giữa tăm tối của cuộc sống, giữa đọa đày bách hại, người Kitô hữu vẫn tiếp tục chiếu sáng trong tín thác, yêu thương, phục vụ, tha thứ.