Thánh Augustinô nói rằng Đức Maria đã cưu mang Chúa Giêsu bằng niềm tin. Thật vậy, Mẹ đã tin Thiên Chúa có thể thực hiện điều không thể xảy ra: một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh con Đấng Tối Cao. Nhờ vậy, Mẹ trở nên gương mẫu đức tin cho chúng ta: Dù chưa hiểu trọn vẹn “việc ấy sẽ xảy thế nào,” nhưng Mẹ đã sẵn lòng xin vâng trước lời mời gọi dấn thân cho Chúa “vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được.”
Trang Tin Mừng hôm nay ghi lại câu chuyện sứ thần truyền tin cho Dacaria và bà Isave đã mang thai ông Gioan cách lạ lùng, là vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Niềm vui và hạnh phúc của bà Êlisabét: một bà mẹ son sẻ nhưng sinh con. Vấn đề son sẻ được đề cập rất nhiều trong Cựu Ước (St 16,12. 25,1. 39,31) (Tp13,2; 1Sm 1,5; Lc1,7) tất cả họ đều là những phụ nữ son sẻ, nhưng đã sinh con và những người con của họ đều là những người đã được Thiên Chúa chọn và dùng vào công trình vĩ đại của Người. Điều đó cho chúng ta thấy sự bất lực của con người lại tỏ bày quyền năng của Thiên Chúa trong công việc của Ngài.
Vì thế, khi chúng ta biết nhìn nhận sự bất lực của mình để đặt niềm tin vào Thiên Chúa, thì chính là lúc chúng ta hạnh phúc khi ta thấy được quyền năng của Thiên Chúa thực hiện trên ta.
Thiên Chúa luôn thực hiện những dấu lạ qua các biến cố, sự kiện trong lịch sử của nhân loại, của Hội Thánh, cũng như trong cuộc sống đời thường của mỗi người chúng ta. Chúng ta được mời gọi nhận ra những dấu lạ đó, để chiêm nghiệm và để dùng lời nói hành động mà ca tụng Chúa vì những điều kỳ diệu Chúa đã làm.
Sứ thần Gáprien truyền tin cho ông Dacaria và cho Đức Maria về hai điều khó xảy ra theo suy nghĩ của con người: ông bà Dacaria sẽ có con lúc tuổi già, còn trinh nữ Maria sẽ thụ thai. Thế nhưng, thái độ của ông Dacaria và Đức Maria hoàn toàn khác nhau: đang khi ông Dacaria nặng lòng hoài nghi về điều sứ thần nói, thì Đức Maria, sau khi hiểu ý nghĩa lời sứ thần, đã mạnh dạn thưa với sứ thần: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Cũng vậy, đang khi Đức Maria cất tiếng ca tụng Thiên Chúa về điều được truyền tin: “Linh hồn ngợi khen Đức Chúa…” còn ông Dacaria thì bị câm trong chín tháng do không tin sứ thần “là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.”
Dacaria là người công chính, gương mẫu: “không ai chê trách được điều gì.” Ông còn vinh dự được tuyển chọn để lo việc tế tự trong đền thờ Giêrusalem. Thế nhưng vợ chồng ông vẫn ôm một nỗi đau buồn tủi hổ vì đã cao niên mà không có con cái nối dòng. Nhưng Thiên Chúa lại dùng chính sự tủi hổ này để bày tỏ quyền năng và thực hiện chương trình cứu độ của Người.
Lạ thay! Ông bà đang mong muốn có một mụn con như thế mà khi sứ thần đến báo tin cho ông biết vợ ông sẽ sinh cho ông một người con trai thì ông lại không thể tin ngay lời sứ thần. Việc ông bị câm lặng không nói được không chỉ là một dấu chỉ để thuyết phục lòng tin của ông mà còn là một cơ hội để ông chiêm nghiệm sâu xa việc kỳ diệu Chúa làm, nhờ đó một khi được Chúa cho mở miệng nói, ông đã cất cao tiếng “Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa It-ra-en” vì Ngài đã thực hiện lời hứa “viếng thăm và cứu chuộc dân Người.”
Thiên Chúa đã can thiệp vào đời tư của 2 ông bà. Ngài thực hiện chương trình cứu độ của Ngài ngay trong dòng lịch sử nhân loại, với những con người bị coi là một hình phạt, là một điều xỉ nhục. Gia-ca-ri-a đã bắt thăm trúng phiên dâng hương và thay than trên bàn dâng hương trong Nơi Cực Thánh. Đây là một vinh dự hiếm có vì số tư tế quá đông. Người dâng hương sẽ thay mặt toàn dân để dâng lời cầu khẩn lên Thiên Chúa, xin Ngài ban Đấng Mêsia đến Cứu độ nhân loại. Khi vào dâng hương, ông Gia-ca-ri-a gặp một sứ thần của Thiên Chúa đứng bên phải hương án (x.c.11). Đây là một cuộc thần hiện thường xảy ra trong Cựu Ước. Ông bối rối và sợ hãi (x.c.12) đó cũng là tâm lý thường tình khi con người đối diện với lãnh vực Kinh Thánh. Sứ thần đã trấn an ông “ Đừng sợ…” .
Sau đó sứ thần loan báo cho ông một Tin Mừng : ông sẽ có một con trai. Niềm mong mỏi mà ông chờ bấy lâu, nay Thiên Chúa đã thực hiện. Nhưng tên con trẻ sẽ đặt theo ý của sứ thần, vì đó là một sứ mạng cao cả dành cho con trẻ. Sự sinh ra của con trẻ sẽ làm cho nhiều người vui mừng, kể cả ông bố nữa. Vì ngoài sự vui mừng trong nỗi hiếm muộn, sứ vụ của con trẻ sẽ dẫn đưa nhiều người về cùng Thiên Chúa và chuẩn bị mọi tâm hồn sẵn sàng đón Chúa. Để được như vậy, bà mẹ phải kiêng cữ rượu và các chất có men, ý nói về nếp sống hy sinh khổ hạnh của vị tiên tri của Chúa.
Sau khi được giải thích kỹ càng và chuyện người son sẻ có con cũng đã xảy ra trong thời Cựu Ước như Sam son (Tl 13,4.7.14), nhưng ông Gia-ca-ri-a đã nghi ngờ quyền năng của Chúa : “Dựa vào đâu mà tôi biết điều ấy ? Vì tôi đã già và bà nhà tôi cũng lớn tuổi”. (c.18). Sự nghi ngờ của ông đã làm cho sứ thần phải xưng danh tánh và kết quả ông “ bị câm” như là một dấu hiệu cho chính ông và người khác. Thái độ của ông không phải là thái độ của Ap-ra-ham (St 15,8). Cha của lòng tin, là tổ phụ của ông.
Theo truyền thống Do Thái, vị thượng tế dâng hương không ở lâu trong cung thánh, vì dân lo âu và vì đó là nơi Thiên Chúa hiện diện, nên rất đáng sợ. Nên khi thấy ông Gia-ca-ri-a ở lâu trong đó, họ không khỏi thắc mắc (x.c.21). Đợi đến lúc ông ra khỏi, thắc mắc của họ đã có đáp số, đó là thấy ông chỉ ra hiệu mà không nói được và họ biết là ông đã thấy điềm lạ trong nơi Cực Thánh. Ông trở về nhà và bà Ê-li-sa-bét đã thụ thai, bà nói : “ Thiên Chúa đã thương cất nỗi hổ nhục mà tôi phải chịu…” (c.25). Một lời nói như một hành vi ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đã thương đến phận người hèn mọn.
Là người chuẩn bị cho Dân Chúa đón Đấng Cứu Thế đến, Dacaria và Elizabeth cũng là mẫu gương giúp chúng ta sống tâm tình Mùa Vọng, đồng thời khích lệ chúng ta trở thành người dọn đường cho tha nhân đến với Chúa. Chúng ta được mời gọi để dọn dẹp con đường lòng mình cho đẹp, cho thẳng và sửa đổi đời sống cho phù hợp với sứ mạng cao cả là dẫn đưa người khác đến với Chúa.
Huệ Minh