Chúa bao bọc con bằng ân nghĩa với lượng hải hà

Cùng với nhóm làm việc, Chị cống hiến cho thính giả một góc trời, một khoảnh khắc suy tư và nguyện gẫm. Chị cố gắng làm chứng cho Phúc Âm vào thời thuận tiện cũng như không thuận tiện, trong đời sống thường nhật cũng như qua ngành truyền thông.

Chị Marie-Pierre Lambert chào đời năm 1937 bên nước Thụy Sỹ. Năm 18 tuổi Chị gia nhập dòng các Nữ Tu Thánh Phaolô Thiện Bản vì được lôi cuốn bởi ngành truyền thông báo chí. Xin nhường lời cho Chị nói về nền tu đức của Chị.

Trong một thời gian dài tôi sống đạo nhưng không có một nền tu đức nào rõ ràng. Tôi sống Đức Tin cách đơn sơ, không bao giờ đặt vấn đề hay hỏi tại sao. Tôi thực hành đạo, trung tín tham dự Thánh Lễ và đọc kinh chung trong gia đình. Tôi tích cực tham gia vào các Hội Đoàn Giới Trẻ như Hướng Đạo, Con Đức Mẹ, ca đoàn và giáo xứ. Chính thân mẫu tôi khuyến khích như thế. Đối với thân mẫu tôi, thật là chuyện quan trọng khi tôi dành thời giờ để phục vụ miễn phí cho tha nhân.

Nền giáo dục này hình thành nơi tôi một nhân cách hết sức tự nhiên. Tôi sống vui tươi thoải mái và khung cảnh tôn giáo trong đó tôi ngụp lặn thấm nhuần cống hiến cho tôi một thời thiếu nữ vô cùng hạnh phúc. Nhưng khi lớn lên tôi cho rằng Song Thân tôi đòi hỏi tôi hơi quá đáng, dầu vậy, không có chuyện tôi ngỗ nghịch hay phản kháng! Không! Giờ đây nhìn lại quá khứ, tôi cảm thấy vô cùng tri ân Song Thân, bởi vì các ngài quả là những nhà giáo dục tốt lành.

Trong thời thơ ấu, tôi khám phá ra ra thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU (1873-1897) nhưng tôi cho rằng đường hướng tu đức của thánh nữ hơi thoảng mùi thơm nước hoa hồng! Có lẽ một phần do việc tôi trông thấy hình ảnh vẽ thánh nữ trong tay cầm bó hoa hồng. Đến thời thiếu nữ, theo thân mẫu đến Lisieux và viếng thăm mọi nơi chốn thánh nữ Têrêxa đã sống, tôi mới khám phá ra một bề mặt khác của vị đại thánh! Từ đó tôi giao hòa với thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và Nhan Thánh.

Theo dòng thời gian, nền tu đức của tôi chuyển hướng về phía thánh François de Sales (1567-1622). Nơi thánh nhân tôi yêu thích khía cạnh nhân bản và hài hước trong nền tu đức của ngài. Người ta kể lại rằng vì phải chiến đấu dữ dội với bản tính vốn dễ nổi giận đầy cộc cằn để trở thành một con người khiêm nhu hiền dịu mà quả tim của thánh nhân bị ”khô đét”! Không rõ có đúng như thế không. Dầu sao thì điều khích động tôi nhất trong đời sống thánh nhân chính là đặc sủng khác biệt của ngài đối với khung cảnh xã hội thời của ngài vào thế kỷ XVII. Ngài nhấn mạnh đến khía cạnh: ”Tất Cả Vì Tình Yêu”. Bởi vì, vào thời kỳ đó, người ta rao truyền một thứ giáo huấn sợ hãi THIÊN CHÚA thay vì Yêu Mến THIÊN CHÚA!

Nơi trường học của thánh François de Sales tôi dần dần ý thức một thực tại, đó là, khi yêu mến THIÊN CHÚA người ta có thể làm bất cứ điều gì, nhưng không phải với bất cứ giá nào! Bởi vì, THIÊN CHÚA không bao giờ ép buộc chúng ta làm bất cứ điều gì! Người luôn luôn để cho chúng ta tự do đáp ”Có” hay ”Không”. Đúng thế. Khi tôi muốn làm một điều gì, tôi có thể chọn lựa. Chính tôi phải quyết định xem cái gì là tốt cho tôi, cái gì mang lại cho tôi điều thiện hảo nhất. Câu nói của thánh Francois de Sales: ”Tất cả Vì Tình Yêu chứ không vì áp lực” giúp ích rất nhiều cho tôi mỗi khi tôi phải chu toàn một điều gì đó xem ra quá khó. Tôi liền tự nhủ: ”Mình phải làm vì tình yêu chứ không vì áp lực”. Tư tưởng này thường theo sát tôi như hơi thở, ngay cả khi tôi không ý thức.

Một nền tu đức khác mang sắc thái và nét đẹp trang trọng của các đan sĩ Xitô: “thinh lặng và cầu nguyện chiêm niệm”. Chính trong thinh lặng sống động mà tôi tu bổ đời sống tu đức của mình.

… ”Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc, khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng .. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn. Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì, hẳn Người nhớ: ta chỉ là cát bụi”(Thánh Vịnh 103(102),1-5/8-14).

(”Évangile et Mission”, Diocèse de Lausanne, Genèse et Fribourg . Sion . Bâle . Abbaye de Saint-Maurice . 14 . 31 Aout 2011, trang 636-639)


Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Exit mobile version