Mọi người gọi tôi là ông chủ quán trọ. Tôi nghĩ rằng bạn gọi đó là một quán trọ. Đối với chúng tôi, đó chỉ là một căn nhà lớn. Ông của tôi, Joshua ben-Yahoudi, đã xây nó khi việc buôn bán của ông phát đạt. Và ông đã xây căn nhà to để đủ chỗ ở cho tất cả 14 đứa con.
Cách đây vài năm, bà nhà và tôi quanh quẩn một mình trong căn nhà to ấy – bọn trẻ giờ đã lớn -và chúng tôi nghĩ có thể nhận một vài khách lữ hành. Rachel rất giỏi việc bếp núc, vì thế, chúng tôi chỉ đánh tiếng cho khách thuê phòng, và họ bắt đầu đến. Mỗi đêm, chúng tôi có 1 hoặc 2 khách, thỉnh thoảng nhiều hơn. Mọi người luôn trở lại khi họ có dịp đến thị trấn để thưởng thức lại món thịt cừu hầm của Rachel.
Khi ấy, có một cuộc điều tra dân số gì đó do mấy ông lớn nghĩ ra. Đóng thuế, đơn giản chỉ có thế! Mọi người từ khắp tỉnh lũ lượt đổ về thị trấn vào tuần lễ ấy. Chúng tôi bù đầu với công việc dọn dẹp. Rachel và tôi ngủ trong phòng chính như thường ngày, và chúng tôi bắt đầu sắp xếp khách trọ ở trong 3 căn phòng khác. Họ không ngừng kéo đến. Sau đó, chúng tôi dồn 2 hoặc 3 gia đình vào chung một phòng. Họ vẫn lũ lượt kéo đến. Cuối cùng, chúng tôi phải để cho 4 gia đình ở trong căn phòng chính cùng với Rachel và tôi, chúng tôi bắt đầu không nhận thêm khách nữa.
Đêm ấy, tôi phải lên xuống giường cả chục lần, vấp phải bao nhiêu là người mới ra được tới cửa. “Không còn phòng, xin lỗi bà con. Không còn phòng. Hãy quay lại vào buổi sáng. Một vài gia đình sẽ rời khỏi”. Họ càu nhàu gì đó, quay trở lại với đoàn người, và trùm mền ngủ đâu đó cạnh căn nhà. Tôi không thể nghĩ ra một chỗ trống nào trong nhà nữa. Đó là sự thật.
Nhưng tôi đã dành một chỗ trống cho thêm một đôi vợ chồng. Giuse là một chàng trai vạm vỡ với cánh tay to và bàn tay mạnh mẽ, hình như anh ta đã nói mình đến từ Nazareth thì phải. Anh ta không thể nhận câu trả lời “không”. Tôi đã nói: “Tôi xin lỗi”, và anh nói với tôi về “Maria bé bỏng” của anh. Khi nhìn thấy “Maria bé bỏng”, tôi nhận thấy cô ấy thật sự không quá bé bỏng. Bụng cô ấy to đùng, và vẻ mặt vô cùng xanh xao. Khi Giuse đang nài nỉ, tôi nhìn thấy cô ấy ôm bụng với vẻ đau đớn, và tôi biết mình không thể để cô ấy sinh con bên ngoài trời gió và mưa tuyết.
Chuồng gia súc. Chỉ còn cách đó, tôi tự nhủ, tôi dẫn hai vợ chồng và con lừa của họ vòng ra phía sau. Lúc này khá đông đúc, tôi phải đuổi một vài con vật ra ngoài mảnh vườn được rào bên ngoài để có một góc khô ráo. Giuse nói: “Chúng tôi vô cùng biết ơn, thưa ông”. Và rồi với cái nhìn nghiêm túc, anh hỏi tôi: “Ông có thể chỉ cho tôi biết quanh đây có bà mụ nào không? Có thể chúng tôi sẽ cần đến bà ấy vào sáng mai, hoặc ngày mốt”.
Chàng trai này không biết gì nhiều về việc chuẩn bị cho một đứa bé chào đời, chỉ nhìn là đủ biết. Tôi chạy sang nhà dì Sarah, và đập cửa cho đến khi chồng của của bà bước ra. Tôi nói với ông ấy: “Một trong những người khách đi đường sắp sinh con. Tôi sẽ đợi trong lúc dì Sarah thay quần áo”. Thỉnh thoảng tôi dừng lại thở, và hối bà đi nhanh hơn.
Khi chúng tôi về tới chuồng gia súc, Giuse đã sắp xếp để “Maria bé bỏng” nằm trên đống cỏ khô sạch, mềm mại, và đắp trên người một chiếc chăn, lau mồ hôi trên trán của cô, và nói chuyện dịu dàng bên cô trong lúc cô chiến đấu với những cơn đau. Dì Sarah bảo tôi đi gọi Rachel, và rồi đẩy tôi và Giuse ra ngoài. “Không có chỗ cho những người đàn ông”, bà nói.
Chúng tôi đợi dường như cả mấy tiếng đồng hồ bên ngoài trong chiếc chòi của chuồng gia súc. Bỗng nhiên, chúng tôi nghe thấy tiếng khóc. “Anh có một đứa con trai”, dì Sarah nói khi chúng tôi nhìn vội phía góc chuồng gia súc. Bà đưa đứa bé cho Rachel, và cô ấy quấn nó trong những chiếc tã cô ấy đã để dành. Tôi nói cho bạn biết, đó là một đứa bé rất dễ thương.
Giuse đến bên Maria, ôm cô thật chặt và hôn lên má cô ấy, Rachel đưa đứa bé cho Maria, và đến bên nắm lấy tay tôi. “Ông có nhớ khi Joshua của chúng ta sinh ra không?”, bà thầm thì.
Chiếc đèn dầu được vặn nhỏ xuống, súc vật nhỏ tiếng, và bé Giêsu ngủ say trong vòng tay của mẹ. Đó là khung cảnh khi tôi rời khỏi và đưa dì Sarah về nhà. Cơn gió lạnh đến rùng mình, nhưng mưa tuyết đã ngưng.
Tốt hơn mình nên xem lại lần nữa – tôi tự nhủ. Vừa nhìn vào, tôi thấy những mục đồng. Những mục đồng già hôi hám, quần áo tả tơi đang quỳ gối trên nền đất bẩn thỉu của chuồng gia súc như thể họ đang cầu nguyện. Người lớn tuổi nhất đang nói gì đó với Giuse về những thiên thần và Đấng Mêsia. Những người khác quỳ và cúi đầu, một vài người nước mắt chảy dài trên mặt.
Tôi ho lớn tiếng, và Giuse nhìn lên. Tôi gần như sẵn sàng đuổi những tên mục đồng ăn trộm này đi khỏi, nhưng Giuse đã dùng tay ra hiệu với tôi. “Không sao đâu” – anh ấy nói khẽ – “Họ đến để thăm Hài Nhi Cứu Thế”.
Hài Nhi Cứu Thế ư? Đấng Mêsia ư? Và lúc ấy, tôi cũng quỳ xuống. Nhìn, cầu nguyện và lắng nghe người mục đồng già kia kể lại câu chuyện về những Thiên thần, sự vinh danh nơi thiên đàng, và dấu hiệu của Hài Nhi thần thánh được quấn trong tã, được tìm thấy trong máng đựng thức ăn trong chuồng gia súc.
Ôi Thiên Chúa của tôi, chuồng gia súc của tôi chính là nơi Hài Nhi Cứu Thế được sinh ra. Máng đựng thức ăn gia súc của tôi chính là nơi Ngài nằm ngủ. Đống rơm của tôi, con chiên của tôi, và vợ của tôi, Rachel đã trợ giúp trong lúc Ngài được sinh ra.
Những mục đồng rời khỏi sau đó không lâu. Một vài người trong số họ nghiêng người và hôn Hài Nhi Cứu Thế đang ngủ và rời khỏi. Tôi cũng đã làm thế.
Tôi luôn vui sướng vì mình đã dành một chỗ nơi chuồng gia súc cho gia đình ấy – Thánh Gia. Bạn thấy đấy, tôi không phải là người chủ quán trọ xấu bụng. Tôi đã có mặt ở đó. Tôi đã nhìn thấy Ngài. Và bạn biết đấy, nhiều năm sau đó, cậu bé ấy đã trở lại Bêlem, lần này, là nói về Vương Quốc của Thiên Chúa. Ồ, tôi nói cho bạn biết, tôi tin Ngài. Tôi đã ở đó. Và hãy ghi nhớ những lời tôi nói, nếu bạn nhìn thấy những gì tôi thấy, bạn cũng sẽ tin giống như tôi.
Dr. Ralph F. Wilson
Nghi Ândịch